Kính lễ chư tôn đức Tăng-Ni, chào mừng Quý Phật Tử thiện nam tín nữ ghé thăm trang Phổ Môn Thị Hiện. Kính chúc mọi người thảy điều được Phúc Lạc Bình An trong sự chở che của mười phương Tam Bảo cùng đức Quán Thế Âm Bồ-tát.

HỖ TRỢ
Yahoo Skype
  
   Truy cập :  
 Đang Online :  
Kinh

Kinh Thiền Pháp Bí Yếu

Thứ tư, 10/07/2013, 12:18 GMT+7

KINH PHÁP THIỀN BÍ YẾU

Hán dịch : Cưu-ma-la-thập
        
    Việt dịch : Nhựt Chiếu                    

---o0o---
 

 

LỜI TỰA CỦA BẢN VIỆT NGỮ

Một hôm thầy Phước Tịnh đưa tôi vào Thiền viện Trúc Lâm. Ðược thầy Thông Phương cho phép chúng tôi lên tàng kinh các xem một số kinh sách theo dự định. Sau khi duyệt sơ qua vài tập kinh thuộc Ðại tạng chữ Hán, tôi nhìn thấy ở gốc trái của kệ sách có một số tài liệu thiền của Trung Hoa và Việt Nam. Tôi lưu ý một tập sách nhỏ: THIỀN BÍ YẾU PHÁP. Ngay cái tựa đề đã gợi sự tò mò, nên mượn thầy Thông Phương về photo.

Sau hai mươi ngày làm việc, tập Thiền kinh này đã được dịch xong, gồm 4 quyển. Trong 3 quyển đầu có 30 phép quán: Từ phép quán bất tịnh thứ nhất, Ðức Phật dạy Tỳ-kheo Ma-ha Ca-hy-la Nan-đà, để trừ nghiệp chướng phóng dật ngã mạn đời trước, thành A-la-hán, đến phép quán phong đại thứ 30. Với những phép quán này, hành giả sẽ đạt đến cảnh giới tối thắng, thành A-na-hàm.

Ba mươi phép quán nói trên rất phức tạp, chủ yếu là quán xương trắng, quán bất tịnh, quán sổ tức và quán tứ đại. Những cảnh giới trong định quá nhiều, quá rộng, chúng xuất hiện tùy theo căn cơ nghiệp cảm của hành giả. Do đó không dễ gì hình dung một cách rõ ràng đầy đủ qua lời tường thuật. Các phép quán cũng yêu cầu người hành trì có một sức định rất sâu.

Trong quyển thứ tư, Ngài Ma-ha Ca-diếp thưa thỉnh Ðức Phật: Vì sao tỳ-kheo A-kỳ-đạt-đa, đệ tử của Ngài, tu hành tinh tấn đắc quả A-na-hàm mà không tiến đến quả vị A-la-hán được. Nhân đó Ðức Phật dạy tỳ-kheo A-kỳ-đạt quán tứ đại, quán năm ấm đều vô thường, khổ, không, vô ngã. A-kỳ-đạt nghe lời Ðức Phật dạy hoát nhiên ý được khai mở, đắc quả A-la-hán. Sau đó Ðức Phật nói rộng về tất cả cảnh giới rất vi tế mà một hành giả cần phải phân biệt trên đường tu tập từ A-na-hàm đến A-la-hán.

Tập Thiền kinh này được Ngài Cưu-ma-la-thập dịch từ chữ Phạn ra chữ Hán. Nó thuộc truyền thống thiền nguyên thủy. Nhưng khi được truyền lên phương bắc thì cách diễn đạt mang sắc thái Ðại thừa. Bản chữ Hán này được khắc in ở Kim Lăng tháng ba năm Dân Quốc thứ mười. Có lẽ vì lý do kỹ thuật nên có một sai sót đáng tiếc: Trong 30 phép quán, cuối mỗi phép đều có ghi số thứ tự, chỉ riêng phép quán thứ 26 không ghi, đến số 27 và 28 lại ghi là 26 và 27. Do đó không có số 28 mà đến ngay 29 và 30. Vì vậy người dịch điều chỉnh lại đúng theo thứ tự, và thêm số la mã ở đầu mỗi phép quán để phân biệt rõ ràng.

Do khả năng hạn chế của người dịch, chắc chắn bản Việt ngữ này có nhiều sai sót- ngay bản chữ Hán đã sai sót rồi. Hơn nữa, người dịch không có những dị bản để đối chiếu và quyết trạch, thì việc lầm lẫn không sao tránh khỏi được. Cúi mong các bực thức giả niệm tình phủ chính. 

 

 

Quyển 1

 

Ðời Diêu Tần, Tam tạng Pháp sư Cưu-ma-la-thập... dịch .

 

I. Tôi nghe như vầy: Có một thời Ðức Phật ở rừng trúc Ca-lan-đà thuộc thành Vương Xá cùng chúng Ðại tỳ-kheo đủ 1.250 vị. Trong số này có 500 vị Ðại đức Thinh văn, đó là các Ngài Xá-lợi-phất, Ðại-mục-kiền-liên, Ma-ha Ca-diếp, Ma-ha Ca-chiên-diên v.v... Bấy giờ trong thànhVương Xá có một vị tỳ-kheo tên là Ma-ha Ca-hy-la Nan-đà thông tuệ nhiều trí đi đến chỗ Phật, lễ Phật và nhiễu Phật bảy vòng. Bấy giờ Ðức Thế tôn đang nhập thiền định sâu yên lặng không nói. Khi Ca-hy-la Nan-đà thấy Phật nhập định, liền đến chỗ Ngài Xá-lợi-phất, cuối đầu lạy sát chân Ðại đức Xá-lợi-phất và bạch rằng: Xin nguyện vì con nói rộng pháp yếu. Lúc đó Ngài Xá-lợi-phất liền nói pháp tứ đế, phân biệt nghĩa thú từ một lần cho đến bảy lần, mà Ca-hy-la Nan-đà tâm nghi chưa tỉnh. Vì vậy đến lễ sát chân khắp 500 vị Thinh văn, xin nói pháp yếu. Các vị Thinh văn, mỗi vị cũng chuyển pháp bốn chân đế bảy lần; thế mà Ca-hy-la Nan-đà tâm cũng không ngộ. Ca-hy-la Nan-đà lại trở về chỗ Phật và làm lễ Phật. Bấy giờ Ðức Thế tôn từ thiền định dậy, thấy Ca-hy-la Nan-đà đầu lễ chân Phật, nước mắt như mưa, tha thiết xin Ðức Thế tôn vì mình chuyển bánh xe chánh pháp. Ðức Phật lại nói rộng pháp bốn chân đế từ một lần cho đến bảy lần, mà Ca-hy-la Nan-đà vẫn như cũ, không hiểu. Còn 500 vị thiên tử nghe điều Phật nói được pháp nhãn thanh tịnh, liền cầm hoa trời cúng dường Ðức Phật. Và bạch Phật rằng: Thưa Ðức Thế tôn, chúng con hôm nay nhờ tỳ-kheo Ca-hy-la Nan-đà mà được pháp, thấy pháp vui mừng lợi ích, như pháp thành Tu-đà-hoàn. Khi Ca-hy-la Nan-đà nghe chư thiên nói ôm lòng xấu hổ, bi thiết nghẹn lời, gieo mình xuống đất như núi lớn đổ. Hai tay hai chân phủ phục trên đất, hướng đến Ðức Phật sám hối.

Lúc đó A-nan từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục, trịch áo để hở vai phải, lễ Phật, nhiễu Phật ba vòng, rồi chấp tay Hồ quỳ, bạch Phật: Thưa Ðức Thế tôn, tỳ-kheo Ca-hy-la Nan-đà có nhân duyên gì, sanh ra đời nhiều trí, lịch duyệt việc đời, bốn bộ luận Phệ-đà, nhựt nguyệt tinh tú, tất cả kỹ nghệ không việc nào không thông đạt. Lại có tội gì mà từ khi xuất gia đến nay, trải qua nhiều năm, đối với pháp vị của Phật chỉ riêng một mình không nếm được. Như lai Thế tôn thương mến thuyết pháp cho, mà ông như người sinh ra đã điếc, không nghe không hiểu được. Các vị đại tướng trong giáo pháp của Phật tùy thuận chuyển pháp luân, có hằng 500 lần vì ông thuyết pháp mà cũng không có ích. Cúi xin Ðức Thế tôn vì chúng con phân biệt, nói về nhân duyên xưa kia của vị tỳ-kheo này.

Khi A-nan hỏi, Ðức Phật liền mỉm cười, có hào quang năm màu từ trong miệng phóng ra, nhiễu Phật bảy vòng, rồi trở về vào đỉnh đầu. Ðức Phật bảo A-nan: Hãy lắng nghe và khéo suy niệm, Ta sẽ vì A-nan mà phân biệt giải nói.

A-nan bạch: Xin vâng, thưa Ðức Thế tôn, chúng con xin muốn nghe.

Ðức Phật bảo A-nan: Trong thời quá khứ rất lâu vô số kiếp, có Ðức Phật Thế tôn tên là Nhiên Ðăng Như lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Ðiều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật Thế tôn. Trong giáo pháp của Ðức Thế tôn đó, có một tỳ-kheo tên là A-thuần Nan-đà, chính là tỳ-kheo Ca-hy-la Nan-đà này, thông tuệ nhiều trí. Do nhiều trí nên kiêu mạn phóng dật, cũng không tu tập phép tứ niệm xứ. Khi thân hoại mạng chung đọa vào địa ngục tối tăm. Từ địa ngục ra rồi sanh trong loài rồng và voi. Trong 500 thân luôn làm vua rồng, trong 500 thân luôn làm voi chúa. Sau khi xả thân súc sanh, nhờ lực trì giới xuất gia trước kia nên được sanh lên cõi trời. Ở trên cõi trời mệnh chung, sinh lại cõi người. Do đời trước đọc tụng ba tạng kinh, nên nay được gặp Phật. Bởi đời trước phóng dật không tu tứ niệm xứ, do đó đời này không thể giác ngộ.

Khi Ca-hy-la Nan-đà nghe Ðức Phật nói điều này liền từ chỗ ngồi đứng dậy, chấp tay qùy thẳng bạch Phật: Thưa Ðức Thế tôn, cúi xin Thế tôn dạy con buộc niệm.

Bấy giờ Ðức Phật bảo Ca-hy-la Nan-đà: Hãy lắng nghe và khéo suy niệm. Ngày nay ông thưa hỏi Như lai chánh pháp cam lồ diệt giặc tâm loạn, thuốc trị phiền não của chư Phật ba đời, đóng tất cả các cửa phóng dật, Ta vì đa số trời người mà giải bày bát chánh đạo. Ông hãy quán sát một cách kỹ lưỡng chớ để tâm loạn.

Lúc Ðức Phật nói lời này, trong chúng có 500 tỳ-kheo không mấy hiểu biết cũng thưa với A-nan rằng: Nay Ðức Thế tôn muốn nói pháp trừ phóng dật, chúng tôi tùy thuận muốn học pháp này, cúi xin Tôn giả vì chúng tôi mà tác bạch với Ðức Phật.

Nghe nói lời này Ðức Phật bảo chư tỳ-kheo: Không những vì các ông mà còn vì những người phóng dật đời sau, nay Ta ở trong rừng trúc Ca-lan này, vì tỳ-kheo Ca-hy-la Nan-đà nói pháp buộc niệm. Ðức Phật bảo Ca-hy-la Nan-đà rằng: Ông tiếp thu lời Ta hãy thận trọng chớ để quên mất. Từ ngày nay ông tu pháp sa-môn. Pháp sa-môn là nên ở chỗ vắng, trải tọa cụ ngồi kiết già, y phục ngay ngắn, thân ngay ngồi thẳng, trịch áo vai phải, để bàn tay trái lên bàn tay phải, nhắm mắt, lưỡi chống lên ổ gà, định tâm an trụ không cho phân tán. Trước nên buộc niệm trên ngón cái chân trái. Quán một cách chuyên chú nửa đốt ngón chân, tưởng nước bọt nổi lên. Quán riết khiến rất sáng tỏ, rồi sau tưởng nước bọt tiết ra. Thấy nửa đốt ngón chân rất trắng sạch như có ánh sáng trắng. Thấy việc này rồi kế quán một đốt khiến thịt vỡ ra, thấy một đốt ngón chân rất sáng rỡ, như có ánh sáng trắng.

Ðức Phật bảo Ca-hy-la Nan-đà như thế gọi là phép buộc niệm.

Ca-hy-la Nan-đà nghe Ðức Phật nói vui vẻ phụng hành.               

Ðức Phật dạy tiếp: Quán một đốt rồi kế quán hai đốt. Quán hai đốt rồi kế quán ba đốt. Quán ba đốt rồi tâm dần dần rộng lớn. Ðang quán năm đốt thì thấy năm đốt ngón chân như có ánh sáng trắng và xương trắng rõ ràng. Buộc tâm quán năm đốt như thế không cho tản mạn. Nếu tâm tản mạn thì thu nhiếp, khiến trở lại quán niệm nửa đốt ngón chân. Khi niệm tưởng thành thì toàn thân sáng nóng, tim hạ nhiệt. Lúc đắc tưởng này gọi là buộc tâm trụ.

Tâm đã trụ rồi lại nên khởi tưởng khiến cho thịt mu bàn chân chia ra hai hướng. Thấy xương mu bàn chân rất rõ ràng, trắng như ngọc tuyết.

Tưởng này thành rồi kế quán xương mắt cá, khiến thịt phân ra hai hướng. Cũng thấy xương mắt cá rất trắng. Kế quán xương ống chân, làm cho thịt rớt ra, tự thấy xương ống chân rất trắng. Kế quán xương đầu gối cũng làm cho sáng rỡ phân minh. Kế quán xương bắp vế cũng thấy rất trắng. Kế quán xương sườn, tưởng thịt từ hai bên hông lật ra hai hướng, chỉ thấy xương sườn trắng như ngọc tuyết. Cho đến thấy xương sống rất rõ ràng. Kế quán xương vai. Tưởng thịt như dùng dao cắt, từ vai đến khủy tay, từ khủy tay đến cổ tay, từ cổ tay đến bàn tay, từ bàn tay đến ngón tay. Ðều làm cho thịt chia ra hai bên, thấy xương trắng nửa thân. Thấy rồi kế quán da đầu. Thấy da đầu rồi kế quán da mỏng. Quán da mỏng rồi kế quán màng mỏng buộc gân thịt. Quán màng mỏng rồi kế quán não. Quán não rồi kế quán lớp mở dưới da. Quán lớp mở dưới da rồi kế quán yết hầu. Quán yết hầâu rồi kế quán phế du. Quán phế du rồi thấy tim, phổi, gan, ruột già, ruột non, bao tử, thận, sinh tạng, thục tạng, bốn muơi hộ trùng. Ở trong sinh tạng nhận chứa tám mươi ức tiểu trùng. Mỗi một tiểu trùng sinh sản từ những mạch máu, đại khái có ba ức. Miệng ngậm sinh tạng. Mỗi một tiểu trùng có bốn mươi chín đầu, đầu đuôi nhỏ giống như mũi kim. Những trùng này cứ hai mươi hộ là hỏa trùng từ hỏa tinh sinh, hai mươi hộ là phong trùng từ phong khí khởi. Những trùng này ra vào các mạch máu, đi chơi tự tại. Hỏa trùng động phong, phong trùng động hỏa. Lại cùng hít thở nhờ sinh tạng và thục tạng. Trên dưới đi lại đại khái có bảy lần chuyển đổi. Những trùng này mỗi con có bảy mắt, mắt đều phát ra lửa. Lại có bảy thân, hút lửa động thân nhờ thục tạng và sinh tạng. Sinh tạng đã thành thục rồi thì mỗi trùng đi về vào trong mạch máu. Lại có bốn mươi hộ trùng, mỗi hộ lãnh ba ức tiểu trùng, thân đỏ như lửa. Trùng có mười hai đầu, mỗi đầu có bốn miệng, miệng ngậm thục tạng. Giữa mạch máu chảy đều quán để thấy. Thấy việc này rồi lại thấy các trùng từ yết hầu ra. Lại quán ruột non, gan, phổi, bao tử, thận đều rót vào trong ruột già. Trùng từ yết hầu rớt ra đất ở trước.

Tưởng này thành rồi thì thấy phân, nước tiểu hôi thúi ở trên đất phía trước và các giun lãi quấn nhau. Trong miệng của các trùng, máu mủ chảy ra dơ bẩn tràn đầy.

Tưởng này thành rồi tự thấy thân mình như người tuyết trắng, các đốt xương chống lên nhau. Nếu thấy vàng, đen thì nên hối lỗi. Ðã hối lỗi rồi, tự thấy trên xương của thân mình sinh da, rồi da đều rớt ra tụ trên đất phía trước, dần dần lớn lên như cái bình bát. Lại tiếp tục lớn giống như cái chum, cho đến lớn như lầu càn-thác-bà. Hoặc lớn hoặc nhỏ tùy tâm tự tại. Lại tăng trưởng dần giống như hòn núi lớn. Và có các trùng ăn thịt hòn núi này, máu mủ chảy ra, có vô số trùng loi ngoi trong mủ. Lại thấy núi da dần dần hoại nát, chỉ còn một ít trùng tranh nhau ăn. Có bốn dạ-xoa bỗng từ đất hiện ra, trong mắt phát ra lửa, lưỡi như rắn độc, và có sáu đầu. Mỗi đầu khác nhau: Một như núi, hai như mèo, ba như cọp, bốn như chó sói, năm như chó, sáu như chuột. Hai chân trước giống như khỉ vượn. Mười ngón ngay thẳng. Mỗi ngón đều có bốn đầu rắn độc. Một phun ra nước, hai phun ra đất, ba phun ra đá, bốn phun ra lửa. Chân trái giống như quỷ cưu-bàn-đồ. Chân mặt giống như quỷ tỳ-xá-xà. Hiện hình xấu ác rất dễ sợ. Lúc bốn dạ-xoa, mỗi con vác chín loại tử thi theo thứ tự xếp hàng đứng đi về phía trước. Ðức Phật bảo Ca-hy-la Nan-đà, đó là cảnh giới đầu tiên của tưởng bất tịnh.

Ðức Phật bảo A-nan : Ông hãy ghi nhớ lời nói này, đừng để quên mất. Vì chúng sanh đời sau phu diễn nói rộng pháp cam lồ này, là Thánh chủng của Tam thừa.

Khi Ca-hy-la Nan-đà nghe Ðức Phật nói lời này thì quán một cách chuyên chú từng điều, qua chín mươi ngày tâm tưởng không di dịch.

Ðến ngày Rằm tháng bảy tăng tự tứ rồi, chư tỳ-kheo đảnh lễ Ðức Thế tôn xong, mỗi người trở về. Sau ngày an cư, theo thứ tự tu đắc bốn quả sa-môn, ba minh, sáu thông đều đầy đủ, tâm rất vui mừng, đến đảnh lễ dưới chân Phật và bạch: Thưa Ðức Thế tôn, ngày nay chúng con nhờ tư duy, nhờ chánh thọ, dựa vào tam-muội nên phần đoạn sanh tử đã hết, không còn thọ thân sau, biết đạo như thật, chắc chắn được thành phạm hạnh thanh tịnh. Thưa Ðức Thế tôn, pháp này là vật cam lồ. Thọ dụng pháp này là dùng vị cam lồ. Cúi xin Ðức Thế tôn nói lại một cách sâu rộng.

Bấy giờ Ðức Thế tôn bảo Ca-hy-la Nan-đà: Nay ông đã thật sự được pháp này, có thể tùy ý làm mười tám biến hóa. Lúc đó Ca-hy-la Nan-đà đứng trong hư không tùy ý làm mười tám biến hóa một cách tự tại.Chư tỳ-kheo thấy Ca-hy-la Nan-đà tâm ngã mạn nhiều còn có thể điều phục thuận theo lời dạy của Phật, buộc tâm một chỗ không chạy theo các giác quan, thành A-la-hán.

Bấy giờ trong chúng hội có 1.500 tỳ-kheo tâm loạn nhiều, thấy việc này rồi đều sanh lòng hoan hy, liền đến chỗ Phật, theo thứ tự thọ pháp. Ðức Thế tôn nhân tỳ-kheo Ma-ha Ca-hy-la Nan-đà kiêu mạn chế pháp buộc tâm đầu tiên. Ðức Phật bảo bốn chúng rằng: Nếu có tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di từ nay về sau muốn cầu đạo vô vi, thì nên buộc niệm chuyên tâm một chỗ. Nếu để tâm này chạy theo sáu giác quan giống như khỉ vượn, không xấu hổ, thì nên biết người này là chiên-đà-la, chẳng phải loại tâm của Hiền Thánh, không điều thuận. Ngục tốt a-tỳ thường sai khiến người này. Người tệ ác như thế trong nhiều kiếp không nhờ vào đâu mà được độ. Giặc loạn tâm này sanh vào ba cõi, do dựa vào tâm này mà đọa vào ba đường ác. Lúc đó chư tỳ-kheo nghe Ðức Phật nói vui vẻ phụng hành.

Ðức Phật bảo A-nan: Nay ông có thấy tỳ-kheo Ma-ha Ca-hy-la Nan-đà nhờ quán bất tịnh mà được giải thoát không? Ông khéo thọ trì, vì chúng nói rộng.

A-nan bạch Phật: Vâng, con xin thọ giáo.

Ðức Phật bảo A-nan: Hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ ghi nhớ.

II. Quán thứ hai là buộc niệm trên trán. Quán tưởng một vùng lớn bằng móng tay giữa trán, thận trọng không cho tư tưởng di dịch. Chú quán như thế khiến tâm an trụ, không sinh các vọng tưởng, chỉ tưởng trên trán. Rồi sau tự quán xương đầu, thấy xương đầu trắng như màu pha lê. Như thế dần dần thấy xương trắng toàn thân, thân thể trắng sạch hoàn toàn, các đốt xương cũng chống lên nhau. Lại thấy những vật bất tịnh tụ tập trên đất ở trước như đã nói trên.

Lúc quán tưởng bất tịnh thành chớ hủy bỏ thân thể, mà nên dạy chuyển quán. Pháp chuyển quán là tưởng ánh sáng trắng chảy ra giữa các khớp xương sáng rực giống như núi tuyết. Thấy việc này rồi thì vật bất tịnh tụ tập ở trước dạ-xoa lấy đi. Lại nên tưởng một người xương ở trước rất trắng. Tưởng này thành rồi kế tưởng người xương thứ hai. Thấy hai người xương rồi, thấy ba người xương. Thấy ba người xương rồi thấy bốn người xương. Thấy bốn người xương rồi thấy năm người xương. Như thế cho đến thấy mười người xương. Thấy mười người xương rồi thấy hai mươi người xương. Thấy hai mươi người xương rồi thấy ba mươi người xương. Thấy ba mươi người xương rồi thấy bốn mươi người xương. Thấy bốn mươi người xương rồi thấy người xương đầy trong một nhà, trước sau phải trái xếp hàng hướng vào nhau, đều đưa tay phải hướng về hành giả.Lúc đó hành giả dần dần to lớn thấy người xương đầy trong một cái sân, hàng hàng hướng vào nhau, trắng như ngọc tuyết, đều đưa tay phải hướng về hành giả. Tâm lại rộng lớn thấy người xương đầy trong một trăm mẫu đất, hàng hàng hướng vào nhau, đều đưa tay mặt hướng về hành giả. Tâm dần dần rộng lớn thấy người xương đầy trong một do tuần, hàng hàng hướng vào nhau, đều đưa tay hướng vo hành giả. Thấy một do tuần rồi cho đến thấy người xương đầy trong một trăm do tuần, hàng hàng hướng vào nhau, đều đưa tay mặt hướng về hành giả. Thấy một trăm do tuần rồi đến thấy người xương đầy trong cõi Diêm-phù-đề, hàng hàng hướng vào nhau, đều đưa tay mặt hướng về phía hành giả. Thấy một Diêm-phù-đề rồi, kế thấy người xương đầy trong cõi Phất-bà-đề, hàng hàng hướng vào nhau, đều đưa tay mặt hướng về hành giả. Thấy cõi Phất-bà-đề rồi, kế thấy người xương đầy trong cõi Cồ-gia-ni, hàng hàng hướng vào nhau, đều đưa tay mặt hướng về hành giả. Thấy cõi Cồ-gia-ni rồi, thấy người xương đầy trong châu Uất-đan-việt, hàng hàng hướng vào nhau, đều đưa tay mặt hướng về hành giả.

Thấy người xương đầy trong bốn thiên hạ rồi thân tâm an ổn, không có tư tưởng kinh sợ. Tâm dần dần rộng lớn thấy người xương đầy trong trăm Diêm-phù-đề , hàng hàng hướng vào nhau, đều đưa tay phải hướng về hành giả. Thấy trăm Diêm-phù-đề rồi thấy người xương đầy trong trăm Phất-bà-đề, hàng hàng hướng vào nhau, đều đưa tay mặt hướng vào hành giả. Thấy trăm Phất-bà-đề rồi kế thấy người xương đầy trong trăm Cồ-gia-ni, hàng hàng hướng vào nhau, đều đưa tay mặt hướng về hành giả. Thấy trăm Cồ-gia-ni rồi kế thấy người xương đầy trong trăm Uất-đan-việt, hàng hàng hướng vào nhau, đều đưa tay mặt hướng về hành giả.

Thấy việc này rồi thân tâm an lạc, không có tư tưởng kinh sợ. Tâm tưởng nhạy bén nên thấy người xương đầy trong thế giới Sa-bà, hai tay buông xuôi, mười ngón duỗi ra, tất cả đều đứng hướng về hành giả. Ðến khi hành giả thấy việc này rồi thì xuất định nhập định luôn luôn thấy người xương. Núi sông vách đá, tất cả vật trong đời đều biến hóa giống như người xương. Bấy giờ hành giả thấy việc này rồi, ở bốn phía thấy nước tứ đại (?) chảy mau màu trắng như sữa. Thấy những người xương theo dòng chảy chìm mất. Lúc quán tưởng này thành lại sám hối. Nhưng thấy thuần nước vọt lên trụ trong hư không, lại phải khởi tưởng làm cho nước yên lặng.

Ðức Phật bảo A-nan: Ðây gọi là phàm phu tâm tưởng bạch cốt bạch quang dõng xuất tam-muội, cũng gọi là phàm phu tâm hải sanh tử cảnh giới tướng. Nay Ta nhân Ca-hy-la Nan-đà, vì ông và tất cả chúng sanh đời sau nói về môn bạch cốt bạch quang dõng xuất tam-muội này, vì nhiếp thủ loạn tâm qua biển sanh tử. Ông nên thọ trì cẩn thận chớ để quên mất.

Lúc Ðức Thế tôn nói lời này rồi liền hiện bạch quang tam-muội, mỗi một tướng mạo đều làm cho A-nan thấy.

Bấy giờ A-nan nghe Ðức Phật nói hoan hỷ phụng hành.

Ðây gọi là cảnh giới đầu tiên của phép quán xương trắng.         

    Ðức Phật bảo A-nan quán tưởng này thành rồi, lại chỉ dạy phép quán tưởng khác. Dạy phép quán tưởng khác là nên tự quán thân thành một người xương trắng, làm cho cực trắng sạch, khiến đầu lộn ngược xuống vào trong xương bắp vế, để tâm yên lặng một nơi, khiến rất phân minh. Quán tưởng này thành rồi thì quán bốn phương xung quanh thân mình đều có người xương. Quán tưởng này thành rồi thì tạo ra (bằng tư tưởng) một người xương trắng trên đất phía trước giống như thân mình, đầu cũng lộn ngược vào trong xương bắp vế. Tưởng một người thành rồi kế tưởng hai người. Tưởng hai người thành rồi kế tưởng ba người. Tưởng ba người thành rồi kế tưởng bốn người. Tưởng bốn người thành rồi kế tưởng năm người. Tưởng năm người thành rồi cho đến tưởng mười người. Thấy những người xương đầy trong một phòng như thế, đầu đều lộn ngược vào trong xương bắp vế. Thấy trong một phòng rồi , cho đến thấy trong trăm phòng những người xương ấy đầu đều lộn ngược vào trong xương bắp vế. Thấy trăm phòng rồi, thấy người xương đầy trong một do tuần đầu đều lộn ngược vào trong xương bắp vế. Thấy một do tuần rồi, cho đến thấy vô lượng những người xương trắng đầu đều lộn ngược vào trong xương bắp vế.

Quán tưởng này thành rồi, thấy những người xương đều buông mình tất cả ngã xuống đất phía trước. Hoặc thấy đầu bể, hoặc thấy ót gãy, hoặc thấy lộn ngược, hoặc thấy uốn cong, hoặc thấy lưng gãy, hoặc thấy chân duỗi, hoặc thấy chân co, hoặc thấy xương chân gãy làm hai, hoặc thấy xương đầu nằm ngang trong ngực, hoặc thấy xương đầu ngửa ngước do duỗi vung vãi dọc ngang đều ở trên đất phía trước, đầy trong một ngôi nhà xung quanh trên dưới.

Quán tưởng này thành rồi, cho đến thấy vô lượng vô biên người xương trắng loạn xạ dọc ngang, hoặc lớn hoặc nhỏ, hoặc gãy hoặc nguyên vẹn. Thấy những việc như thế đều nên trụ tâm quán sát chuyên chú khiến cực phân minh.

Ðức Phật bảo A-nan: Lúc hành giả thấy việc này rồi, nên tự tư duy xương trước kia nguyên vẹn, nay phá tán ngang dọc lộn xộn không thể ghi chép. Thân xương trắng này hẳn còn vô định. Nên biết thân ta cũng lại vô ngã. Quán chuyên chú như thế rồi, nên tự tư duy chính các xương tạp loạn ngang dọc như thế thì nơi nào có ta và thân người khác. Bấy giờ hành giả tư duy vô ngã thì thân tâm vui vẻ an ổn khoái lạc.

Ðức Phật bảo A-nan quán tưởng này thành rồi, lại phải chỉ dạy lại khiến tâm rộng lớn, làm cho hành nhân kia thấy xương tán loạn ngang dọc trong một cõi Diêm-phù-đề. Thấy bốn mặt xung quanh ngoài những xương cốt có lửa lớn nổi lên lần lượt thiêu đốt các xương tạp loạn. Thấy lửa nổi lên trong các đốt xương của những người xương. Tướng trạng của lửa như thế, hoặc có nhiều lửa giống như nước chảy bốc cháy sáng rực lan tràn trong xương cốt. Hoặc có nhiều lửa giống như núi lớn từ bốn mặt ập lại.

Quán tưởng này thành rồi rất kinh sợ. Lúc xuất định thân thể bốc nóng. Lại nên nhiếp tâm như trước, quán xương, quán một người xương trắng làm cho cực sáng tỏ. Bấy giờ lúc hành giả nhập định không tự dậy được. Cần phải khảy móng tay rồi sau dậy được. Quán tưởng này thành thì nên tự khởi niệm mà nói lời này: Ta từ vô số kiếp đời trước đến nay đã tạo các phiền não, bị nghiệp duyên lôi kéo, nên khiến nay thấy lửa này nổi lên. Lại nên quán niệm lửa như thế này từ tứ đại mà có, nhưng thân ta rỗng rang vắng lặng, tứ đại vô chủ. Lửa mãnh liệt rộng lớn này từ không khởi lên, thân ta thân người tất cả đều không. Lửa như thế từ vọng tưởng sanh làm sao thiêu được. Thân ta và lửa hai thứ đều vô thường.

Ðức Phật bảo A-nan: Hành giả phải nên chí tâm chú quán những pháp như thế. Quán rỗng không, không lửa cũng không có nhiều xương. Người thực tập quán này không có sợ hãi, thân ý điềm tĩnh an lạc hơn trước bội phần.

Bấy giờ A-nan nghe Ðức Phật nói hoan hỷ phụng hành.

Quán tưởng này thành, gọi là quán xương trắng thứ hai xong.

III. Ðức Phật bảo A-nan quán xương trắng thứ hai xong rồi, lại phải chỉ dạy phép buộc niệm. Phép buộc niệm, trước nên buộc tâm trên ngón cái chân trái. Nhứt tâm chú quán ngón chân cái, khiến thịt xanh đen, nước dãi dơ bẩn hiện ra, giống như ánh mặt trời nướng thịt mỡ. Dần dần đến đầu gối, cho đến bắp vế. Quán chân trái rồi quán chân mặt cũng như vậy. Quán chân mặt rồi, kế nên quán eo lưng, đến lưng, đến cổ, đến ót, đến đầu, đến mặt, đến ngực, chi tiết toàn thân, tất cả các phần của thân thể cũng đều có nước dãi đen, giống như ánh mặt trời nướng thịt mỡ. Ðồ bất tịnh chảy tràn đầy như phân, nước tiểu tụ tập. Quán một cách chuyên chú thân mình khiến cực phân minh. Tưởng một người thành rồi lại nên tưởng hai người. Tưởng hai người thành rồi lại nên tưởng ba người. Tưởng ba người thành rồi lại nên tưởng bốn người. Tưởng bốn người thành rồi lại nên tưởng năm người. Tưởng năm người thành rồi lại nên tưởng mười người. Tưởng mười người thành rồi thấy nước dãi đen đầy trong một ngôi nhà, giống như ánh mặt trời nướng thịt mỡ, như phân nước tiểu tụ tập. Những người bất tịnh xếp hàng ngang dọc đầy trong một ngôi nhà. Thấy một ngôi nhà rồi thấy hai ngôi nhà. Thấy hai ngôi nhà rồi cho đến thấy người bất tịnh nhiều vô lượng. Bốn gốc trên dưới, thế giới Sa-bà thảy đều đầy ấp.

Tưởng này thành rồi, hành nhân tự nhớ mình trong đời trước tham dâm ngu si không tự giác tri, tuổi đang mạnh mẽ phóng dật tham đắm tình sắc không biết xấu hổ, đuổi theo sắc thanh hương vị xúc pháp. Nay quán thân mình tràn đầy bất tịnh, thân người cũng thế, nào đáng yêu thích. Thấy việc này rồi , tự chán thân vô cùng, xấu hổ tự trách. Lúc xuất định thấy các thức ăn đồ uống như phân, nước tiểu rất chán ghét.

Kế dạy chuyển quán. Phép chuyển quán là nên khởi tưởng niệm lại. Lúc tưởng niệm thành, thấy những bất tịnh xung quanh bốn mặt ngoài thân bỗng nhiên hơi lửa bốc lên, nóng như lúc lửa cháy. Sắc ấy trắng hoàn toàn, như ngựa hoang đi phản chiếu các vật bất tịnh. Bấy giờ hành giả thấy việc này rồi nên rất vui mừng. Vì vui mừng nên thân tâm nhẹ nhàng mềm mại. Tâm sáng suốt khoái lạc gấp đôi lúc thường.

Ðức Phật bảo A-nan: Ðây là phép quán tự trách xấu hổ thứ ba.

Bấy giờ A-nan nghe Phật nói hoan hỷ phụng hành.

Phép quán này thành gọi là quán nước dãi dơ bẩn xấu hổ thứ ba xong.

IV. Ðức Phật bảo A-nan, tưởng này thành rồi lại phải dạy lại cách buộc niệm trụ ý trên ngón cái chân trái, chú quán đốt ngón chân cái, tưởng trương phình lên. Thấy trương phình lên rồi khởi tưởng hư nát. Thấy hư nát rồi khởi tưởng máu mủ xanh đen đỏ trắng. Máu mủ này rất hôi hám khó có thể chịu nổi. Như thế dần dần đến đầu gối, đến bắp vế đều khiến trương phình lên rửa nát dơ dáy. Quán chân trái rồi quán chân mặt cũng như thế. Như vậy dần dần đến eo lưng, đến lưng, đến cổ, đến ót, đến đầu, đến mặt, đến ngực, chi tiết toàn thân, tất cả trương phình lên rồi đều hư nát . Các mủ xanh đen đỏ trắng chảy ra hôi thúi, ô uế lộn xộn không thể ở nổi.Tưởng một người thành rồi lại tưởng hai người. Tưởng hai người thành rồi lại tưởng ba người. Tưởng ba người thành rồi lại tưởng bốn người. Tưởng bốn người thành rồi lại tưởng năm người. Tưởng năm người thành rồi cho đến tưởng mười người. Tưởng mười người thành rồi thấy những người trương phình lên xung quanh trên dưới trong một ngôi nhà đều hư nát. Mủ xanh đen đỏ trắng đều chảy ra ô uế hôi thúi không thể chịu nổi. Lại tưởng một do tuần. Tưởng một do tuần rồi cho đến tưởng trăm do tuần. Tưởng trăm do tuần rồi cho đến thấy ba ngàn đại thiên thế giới, xung quanh trên dưới ở đất và hư không tất cả những người như thế trương phình hư nát đầy ấp, các mủ xanh đen đỏ trắng chảy ra lộn xộn ô uế tràn đầy không thể ở nổi.

Ðức Phật bảo A-nan, lúc hành giả thấy việc này rồi tự quán thân mình tràn đây bất tịnh. Quán thân người cũng lại như vậy. Nên tưởng niệm thân này của ta phải rất lo sợ chán ngán, vì quá nhiều bất tịnh đầy ấp tất cả. Quán như thế rồi sợ hoạn nạn sanh tử, tâm tin sâu nhơn quả một cách kiên cố. Xuất định nhập định luôn thấy bất tịnh, mong cầu chán lìa xả bỏ thân này. Lúc quán tưởng này tự thấy thân mình toàn thể da thịt như lá mùa thu rụng. Thấy thịt rơi xuống đất phía trước rồi tâm liền xúc động mạnh, tâm sinh kinh sợ, thân tâm chấn động không thể tự an, thân khí nhiệt não như người bịnh nhiệt bị khát bức bách. Lúc xuất định, như người đi ngoài đồng rộng trong ngày hè khát không có nước, thân thể rất mệt.

Tưởng này thành rồi, cho đến giờ ăn thấy vật thực như thấy tử thi sình, thấy thức uống giống như máu mủ. Tưởng này thành rồi chán thân cùng cực. Quán trong thân và ngoài thân mong sạch không được.

Ðức Phật bảo A-nan, lại phải chỉ dạy khiến họ chuyển đổi phép quán tưởng, đừng khiến bỏ thân vì không sở đắc. Chuyển phép quán là tưởng một vật sạch ở ngoài xa chỗ hôi thúi ô uế. Dạy họ buộc tâm tưởng vào một vật sạch này. Mắt tâm sáng tỏ liền muốn đến lấy. Như thế cái thấy dần dần rộng xa. Ngoài những bất tịnh có các tịnh địa, như đất lưu ly hiện ra chỗ sạch này, liền muốn đi đến. Sự thay đổi lại rộng xa mà ý không thông hiểu được.

Ðức Phật bảo A-nan, bấy giờ nên dạy hành nhân như vậy và nói lời này: Việc thấy của ông là tưởng bất tịnh. Tưởng bất tịnh này về vật uế tạp. Nên biết tưởng này từ điên đảo khởi, đều do đời trước làm việc điên đảo mà được thân này, chủng tử căn bản của thân này đều là bất tịnh. Nay ông thật thấy bất tịnh này không? Tuy thấy tịnh ở ngoài bất tịnh, nên biết tịnh này và bất tịnh không thể dừng lại lâu mà đuổi theo cái thấy ức tưởng của các căn. Thân bất tịnh này thuộc các nhân duyên, duyên hợp thì có, duyên lìa thì không. Việc thấy của ông cũng thuộc duyên tưởng , tưởng thành thì có, tưởng hoại thì không. Tưởng này từ năm tình sinh ra rồi lại vào trong tâm ông. Do các nhân duyên của lòng ham muốn mà có tưởng này. Tưởng bất tịnh này không từ đâu đến, cũng không về đâu. Ông nên quán từng bất tịnh, tìm kiếm  ta người hoàn toàn không thể được. Ðức Thế tôn nói ta và người đều trống không vắng lặng huống là bất tịnh. Tâm quở trách đủ loại như thế để dạy quán không. Thấy tóc lông răng móng tất cả đều không, hoát nhiên buông xả các vật bất tịnh. Trụ ý như trước, trở lại quán người xương.

Ðức Phật bảo A-nan: Ông hãy ghi nhớ lời này, cẩn thận chớ quên mất phép quán bất tịnh này và phép chuyển tưởng.

Lúc đó A-nan nghe lời Phật dạy vui vẻ phụng hành.

Lúc quán tưởng này thành gọi là tưởng thân phình trướng với máu mủ và quán chuyển tưởng thứ tư xong.

V. Ðức Phật bảo A-nan, tưởng này thành rồi, tiếp theo phải dạy buộc niệm một chỗ, ngồi ngay thiền định. Quán một cách chuyên chú trên ngón cái chân mặt, khiến da trên ngón chân giựt giựt muốn xuyên qua lớp da dày và da mỏng, trong ngoài phản chiếu thông suốt. Trong lớp da mỏng có một màng mỏng cũng nên quán kỹ. Như thế dần dần đến đầu gối, đến bắp vế. Quán chân trái cũng vậy, đến eo lưng, đến lưng, đến cổ, đến ót, đến đầu, đến mặt, đến ngực, toàn thân đều như thế. Da dày da mỏng trong ngoài chiếu suốt, giựt giựt muốn xuyên qua như bị thổi, da trương phình lên không thể nói hết. Từ từng lỗ một cho đến trăm ngàn lỗ chân lông của cơ thể, nước mủ lẫn lộn giống như giọt mưa chảy ra mau như mưa sấm. Máu mủ trong ngoài đều chảy tràn đầy, bất tịnh cùng cực khó có thể chịu nổi. Giống như ao mủ cũng như ao máu, trùng dòi đầy ở trong.

Tưởng này thành rồi, nên quán trong ngực, toàn thân là trùng, giống như trùng tụ tập. Lại nên quán ngón cái chân trái trương phình chảy mủ: Mủ xanh, mủ vàng, mủ đỏ, mủ đen, mủ hồng, mủ lục, mủ trắng chảy ra lẫn lộn với phân nước tiểu hỗn tạp. Lại có các trùng du hý trong ấy, ô uế hôi thúi không thể chịu nổi. Ngao ngán thân này, không tham các dục, không vui thọ sanh.

Lúc tưởng này thành, thấy đại dạ-xoa thân như núi lớn đầu tóc rối bù như rừng gai nhọn, có sáu mươi mắt giống như điện sáng, có bốn mươi  miệng, miệng có hai răng đều chỉa lên giống như cờ lửa. Lưỡi giống cây kiếm le đến đầu gối. Tay cầm gậy sắt. Gậy giống núi dao như muốn đánh người. Số quỷ như thế nhiều chớ không phải một. Lúc thấy việc này, hết sức kinh sợ, thân tâm đều rung động. Tướng mạo như thế đều do đời trước hủy phạm giới cấm, căn bản là các việc ác: Vô ngã cho là ngã, vô thường cho là thường, bất tịnh bảo là tịnh. Phóng dật nhiễm trước, tham đắm dục lạc. Ở trong pháp khổ sinh tưởng vui trái ngược; ở trong pháp không khởi tưởng điên đảo; ở thân bất tịnh khởi tưởng trong sạch. Tự nuôi sống bằng tà mạng, không kể vô thường.

Lúc tưởng này thành lại phải chỉ dạy lại. Ông chớ kinh sợ, vì dạ-xoa này là cảnh giới độc hại thuộc tâm ác của ông, từ sáu đại khởi, được hình thành do sáu đại. Nay ông nên quán kỹ sáu đại . Sáu đại này là đất, nước, lửa, gió, thức và không. Mỗi đại như thế ông nên suy xét kỹ. Thân ông là đất ư, là nước ư, là lửa ư, là gió ư, là thức ư, là không ư. Như thế quán kỹ từng pháp một, xem thân này từ đại nào sinh, từ đại nào tán. Thực tế sáu đại vô chủ, thân cũng vô ngã. Nay vì sao ông sợ dạ-xoa? Như tâm tưởng của ông không từ đâu đến cũng không đi về đâu. Tưởng thấy dạ-xoa cũng lại như thế, chỉ yên tâm ngồi. Giả sử dạ-xoa đến đánh, ông hãy hoan hỷ nhẫn chịu, quán kỹ vô ngã. Trong pháp vô ngã không có tưởng kinh sợ, chỉ nên chính tâm, ngồi kiết già, quán kỹ bất tịnh và dạ-xoa. Quán tưởng một lần thành rồi, lại nên quán tưởng lần thứ hai. Như thế dần dần cho đến vô lượng, quán kỹ từng pháp đều khiến phân minh.

Ðức Phật bảo A-nan: Ông khéo thọ trì pháp quán bất tịnh da mỏng, cẩn thận chớ quên mất.

Bấy giờ A-nan nghe Ðức Phật nói vui vẻ phụng hành.

Lúc tưởng này thành gọi là quán da mỏng thứ năm xong.    

VI. Ðức Phật bảo A-nan, tưởng này thành rồi lại phải dạy buộc niệm trên ngón cái chân mặt. Nên quán kỹ ngón chân, khiến chân trương phình lên từ chân đến đầu. Như thổi túi da phình lên, nước dãi đen xanh đọng lại khó chịu, trùng trắng như hạt gạo đầy cả ở trong. Trùng có bốn đầu, đuổi nhau lúc nhúc, lại ăn lẫn nhau. Bắp thịt, xương, tủy đều sinh các trùng. Tất cả ngũ tạng trùng đều ăn hết, chỉ còn da dày ở ngoài xương. Da dày và mỏng giống như lụa lãnh. Các trùng ra vào như xuyên qua lá trúc. Trong ngoài giựt giựt da như muốn lủng. Trong mắt ngứa gấp, có vô số trùng xuyên qua mắt, muốn sinh ra khoảng vành mắt. Chín lỗ của thân mình cũng lại như thế. Các trùng bây giờ từ da dày ra vào, da mỏng da vừa bị lủng, tất cả trùng đều rơi xuống đất, số đó rất nhiều không thể kể hết, làm thành một nhóm lớn giống như núi trùng, ở trước hành giả, lại ăn lẫn nhau hoặc ôm quấn nhau.                      

Lúc hành giả thấy trùng nhiều như thế rồi, lại nên buộc niệm, quán kỹ một con trùng, khiến con trùng này ăn hết các con trùng khác. Ðã ăn trùng rồi, chỉ con trùng còn lại ở giữa lớn dần, hiện ra một con rùng lớn bằng con chó, thân thể khốn đốn, mũi cong như cái sừng ngữi trước hành giả. Mắt nó rất đỏ như hòn sắt nóng.

Thấy việc này rồi rất kinh sơ, nên tự ức niệm thân mình vì sao bỗng nhiên như thế. Quán niệm việc này như vậy thì trước thấy các con trùng lại ăn lẫn nhau, nay thấy hình thể con trùng này ghê tởm rất đáng sợ làm sao !

Lúc tưởng này thành, nên tự quán thân, ta và những con trùng này vốn không, nay có rồi, có lại không. Như thế bất tịnh từ tâm tưởng sanh, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng chẳng phải ta, cũng chẳng phải người. Như thế thân này do nhân duyên sáu đại hòa hợp tạo thành. Khi sáu đại tan diệt thì thân cũng không còn. Các con trùng không từ đâu đến, không đi về đâu. Thân ta và trùng tụ tập đâu có thật. Trùng cũng không chủ ta cũng vô ngã. Lúc tư duy như thế, thấy mắt trùng sẽ dần dần nhỏ. Thấy việc này rồi thân tâm hòa vui điềm nhiên an lạc gấp đôi trước kia.

Ðức Phật bảo A-nan: Ông kheo thọ trì phép quán da dày và trùng tụ tập này, cẩn thận chớ quên mất.

A-nan nghe Ðức Phật nói vui vẻ phụng hành.

Tưởng này thành rồi gọi là quán da dày và trùng tụ tập thứ sáu xong.

VII. Ðức Phật bảo A-nan, lại nên trụ ý buộc niệm một chỗ, quán kỹ trên ngón cái chân mặt, từ chân đến đầu, quán một cách chuyên chú. Phải làm cho da thịt, toàn bộ ruột, bao tử, bụng, gan, phổi, tim, lá lách, thận, tất cả ngũ tạng đều rơi xuống đất, chỉ có gân xương dính liền nhau. Lớp da mỏng còn sót lại dính xương màu rất đỏ, hoặc như bùn đọng, hoặc như nước đục. Tưởng nước đục lấy dùng rửa da, từ chân đến đầu đều làm như vậy. Tự quán thân mình khiến rất phân minh. Quán thân mình rồi, lại quán một thân hiện ra ở trên đất phía trước đứng như mình không khác. Tưởng một người thành rồi lại phải tưởng hai người. Tưởng hai người thành rồi lại phải tưởng ba người. Tưởng ba người thành rồi lại phải tưởng bốn người. Tưởng bốn người thành rồi lại phải tưởng năm người. Tưởng năm người thành rồi  cho đến tưởng mười người. Tưởng mười người thành rồi thấy xung quanh trên dưới đầy trong một ngôi nhà đều là người xương màu đỏ. Hoặc có màu bùn đọng, hoặc có màu nước đục, dùng nước đục rửa da. Người như thế dần dần nhiều đầy cả một do tuần. Tưởng một do tuần rồi tưởng hai do tuần. Tưởng hai do tuần rồi dần dần rộng lớn tưởng năm do tuần.Tưởng năm do tuần rồi cho đến thấy người xương màu đỏ đầy trong ba ngàn đại thiên thế giới. Hoặc có màu bùn đọng, hoặc có màu nước đục, dùng nước đục rửa da, đầy khắp xung quanh trên dưới ngang dọc.

Ðức Phật bảo A-nan: Nay ông quán kỹ tướng màu đỏ này, cẩn thận chớ quên mất.

Bấy giờ A-nan nghe Ðức Phật nói vui vẻ phụng hành.

Lúc tưởng này thành gọi là tưởng nước đục bùn đọng rất đỏ rửa da uế tạp thứ bảy xong.

VIII. Ðức Phật bảo A-nan, lại phải chỉ dạy cách buộc tâm trụ ý, quán chăm chú ngón cái chân trái, từ chân đến đầu như người mới chết màu vàng úa. Nên quán thân mình cũng lại như vậy. Thấy vàng úa rồi, phải làm cho màu vàng biến thành xanh đỏ.

Lúc tưởng này thành, thấy trên đất phía trước có một người mới chết, màu vàng đỏ. Thấy một người rồi thấy hai người. Thấy hai người rồi thấy ba người. Thấy ba người rồi thấy bốn người. Thấy bốn người rồi thấy năm người. Thấy năm người rồi tâm tưởng nhạy bén, nên thường thấy thân mình như người mới chết.

Tưởng như thế thành thì thấy tất cả người đầy cõi Diêm-phù-đề như người mới chết. Tưởng này thành rồi lại chuyển qua cảnh rộng lớn thấy người mới chết đầy trong ba ngàn đại thiên thế giới. Tự thấy thân mình cho đến thân người không khác. Lúc tưởng này thành thì tâm ý lo lắng, tham dục trở thành mỏng yếu.

Ðức Phật bảo A-nan: Ông khéo quán kỹ pháp tưởng người mới chết này, cẩn thận chớ quên mất.

Bấy giờ A-nan nghe Ðức Phật nói vui vẻ phụng hành.

Lúc tưởng này thành gọi là tưởng người mới chết thứ tám xong.

IX. Ðức Phật bảo A-nan: Lại nên buộc niệm trụ ý quán kỹ trên ngón cái chân trái, từ chân đến đầu, khiến tâm không phân tán. Thấy các xương của thân từng cái rõ ràng. Các đốt chống lên nhau, cũng kềm giữ liền nhau, không sứt mẻ. Lông tóc răng móng đều đầy đủ sáng rỡ rất trắng. Thấy thân mình rồi, tưởng qua tưởng lại rất kỹ làm cho trắng sạch. Tưởng một thân rồi lại tưởng hai thân. Tưởng hai thân rồi lại tưởng ba thân. Tưởng ba thân rồi lại tưởng bốn thân. Tưởng bốn thân rồi lại tưởng năm thân, cho đến mười thân. Tưởng mười thân rồi thấy xung quanh trên dưới trong một ngôi nhà đều là người xương với lông tóc răng móng đều đầy đủ rất trắng, như ngọc tuyết. Thấy một nhà rồi lại thấy trăm nhà. Thấy trăm nhà rồi lại thấy một Diêm-phù-đề, cho đến thấy đầy trong ba ngàn đại thiên thế giới người xương với lông tóc răng móng đều đầy đủ, màu rất trắng như ngọc tuyết. Lúc tưởng này thành thì tâm ý điềm nhiên an lạc vui vẻ gấp đôi lúc thường.

Ðức Phật bảo A-nan: Ông khéo quán kỹ tưởng xương thân đầy đủ, cẩn thận chớ quên mất.

Bấy giờ A-nan nghe Ðức Phật nói vui vẻ phụng hành.

Lúc tưởng này thành gọi là tưởng thân đầy đủ( xương, lông, tóc, răng, móng-người dịch) thứ chín xong.

 

Ðức Phật bảo A-nan, lại phải dạy cách buộc tâm trụ ý quán kỹ giữa hai đốt xương ngón cái chân mặt, khiến tâm chuyên trụ, ý không phân tán. Quán hai đốt xương lìa nhau ra, chỉ chống lên nhau một góc. Quán hai đốt xương rồi, từ chân đến đầu đều khiến như thế, làm cho các khớp rời ra, chỉ chống lên nhau một góc. Từ đầu đến chân có 363 khớp, quán kỹ từng khớp, khiến mỗi khớp rời ra. Nếu không đủ thì an tâm quán kỹ làm cho mỗi khớp xương rời ra, chỉ chống lên nhau một góc. Quán thân mình rồi nên quán thân người. Quán thấy một thân rồi quán thấy hai thân. Quán hai thân rồi quán thấy ba thân. Quán ba thân rồi quán thấy bốn thân. Quán bốn thân rồi quán thấy năm thân. Quán năm thân rồi cho đến quán thấy vô lượng người xương trắng, mà các đốt xương chỉ chống lên nhau một góc.Thấy việc này rồi lại thấy bốn phương nhiều người xương cũng lại như vậy.

Lúc đắc quán này sẽ tự nhiên thấy ngoài những người xương giống như biển lớn điềm tịnh trong lặng. Tâm sáng suốt mãnh lợi thấy nhiều ánh sáng tạp sắc vây quanh bốn phía. Thấy việc này rồi tâm ý tự nhiên an ổn khoái lạc, thân tâm thanh tịnh, không có tư tưởng buồn vui.

Ðức Phật bảo A-nan: Ông khéo quán kỹ tưởng các khớp xương rời ra, cẩn thận chớ để quên mất.

A-nan nghe Ðức Phật nói vui vẻ phụng hành.

Ðắc tưởng này gọi là quán các khớp xương thứ mười xong.

 

XI. Ðức Phật bảo A-nan: Quán này thành rồi lại phải dạy cách buộc niệm trụ ý , quán kỹ giữa hai đốt xương ngón cái chân mặt, khiến hai đốt xương lìa nhau bằng ba ngón (chân). Tưởng ánh sáng trắng kềm chống khớp xương. Nếu ngồi ban đêm thì tưởng ánh sáng trăng. Nếu ngồi ban ngày thì tưởng ánh sáng mặt trời luôn kềm giữ các đốt xương không cho rớt ra. Từ chân đến đầu 363 khớp đều khiến lìa nhau bằng ba ngón (chân). Dùng ánh sáng trắng kềm giữ không cho rớt ra. Lúc ngồi ban ngày, dùng ánh sáng mặt trời kềm giữ. Nếu ngồi ban đêm thì dùng ánh sáng mặt trăng kềm giữ. Quán giữa các đốt xương đều làm cho phát ra ánh sáng trắng.                                     

    Lúc đắc quán này sẽ tự nhiên ở trong ánh sáng mặt trời thấy trong một tầm hào quang tròn của Phật một trượng sáu, trái phải trên dưới mỗi bên cũng thấy một tầm. Thân thể sắc vàng toàn thân quang minh đoan nghiêm đỏ chói. 32 tướng tốt, 80 tướng phụ đều sáng rỡ, được thấy quang minh của từng tướng hảo, như Ðức Phật ở đời không khác. Lúc thấy cẩn thận chớ làm lễ, chỉ nên an tâm quán kỹ các pháp. Nên tưởng niệm rằng Phật nói các pháp không đi không lại, tất cả tính tướng cũng đều rỗng không, vắng lặng. Chư Phật Như lai là thân giải thoát. Thân giải thoát thì là chân như. Trong pháp chân như không thấy không đắc. Lúc tưởng như thế, tự nhiên sẽ thấy tất cả chư Phật. Do thấy Phật nên tâm ý an vui điềm đạm khoái lạc.

Ðức Phật bảo A-nan, pháp quán chuyên chú này là tưởng xương trắng phát ra ánh sáng, ông hãy cẩn thận chớ để quên mất.

Bấy giờ A-nan nghe Ðức Phật nói vui vẻ hụng hành.

Ðắc quán này gọi là quán xương trắng phát ra ánh sáng thứ 11 xong.

 

XII. Ðức Phật bảo A-nan, đắc quán này rồi lại phải dạy cách buộc tâm trụ ý quán kỹ xương sống. Dùng sức định tâm tưởng một lầu cao ở giữa xương sống. Tự quán thân mình như người ngọc trắng ngồi kiết già. Dùng ánh sáng xương trắng chiếu khắp tất cả. Lúc quán như thế khiến rất rõ ràng. Ngồi đài này rồi, như người có thần thông đứng trên đỉnh núi Tu-di, xem thấy bốn phương không có chướng ngại. Tự thấy thân cũ rõ ràng phân minh. Thấy những người xương trắng như ngọc tuyết, hàng hàng hướng vào nhau. Thân thể hoàn toàn đầy đủ, không một ai không toàn vẹn, đầy trong ba ngàn đại thiên thế giới. Ðây gọi là tưởng ánh sáng trắng đã thành. Kế thấy xương dọc cũng đầy ba ngàn đại thiên thế giới. Lại thấy xương ngang cũng đầy ba ngàn đại thiên thế giới. Thấy người xương màu xanh, hàng hàng hướng vào nhau đầy ba ngàn đại thiên thế giới. Lại thấy người xương màu đen, hàng hàng hướng vào nhau, đầy ba ngàn đại thiên thế giới. Lại thấy người trương phình, hàng hàng hướng vào nhau, đầy ba ngàn đại thiên thế giới. Lại thấy người bịnh ghẻ mủ, lại thấy người thân máu mủ nhơ nhớp đầy ba ngàn đại thiên thế giới. Lại thấy người hư nát toàn thân, trùng bò ra đầy ba ngàn đại thiên thế giới. Lại thấy người thân phủ lớp da mỏng, đầy ba ngàn đại thiên thế giới. Lại thấy người da xương lìa nhau, đầy ba ngàn đai thiên thế giới. Lại thấy người đỏ như màu máu, đầy ba ngàn đại thiên thế giới. Lại thấy người sắc như nước đục đầy ba ngàn đại thiên thế giới. Lại thấy người sắc như bùn đọng đầy ba ngàn đại thiên thế giới. Lại thấy người xương trắng đủ lông tóc răng móng cùng liên kết với nhau đầy ba ngàn đại thiên thế giới. Kế thấy 363 khớp xương rời ra, chỉ chống lên nhau một góc. Người xương như thế đầy ba ngàn đại thiên thế giới.

Kế thấy người mà mỗi đốt xương chia lià nhau ra bằng ba ngón(? ),khoảng giữa có ánh sáng trắng đầy ba ngàn đại thiên thế giới. Kế thấy người xương trắng phân tán ra, chỉ có ánh sáng trắng liên kết nhau đầy ba ngàn đại thiên thế giới. Như thế sẽ thấy số người xương trắng rất nhiều không thể nói hết.

Lúc đắc quán này sẽ khởi tưởng niệm thân này của ta từ tứ đại sanh khởi, chủng tử ngọn ngành cho đến sự bất tịnh như thế thật rất đáng lo sợ chán ngán. Cảnh giới như thế từ tâm ta khởi. Tâm tưởng thì thành, không tưởng thì không thấy. Nên biết tưởng này là giả quán, thấy theo hư vọng, thấy thuộc các nhân duyên. Nay ta nên quán nhân duyên các pháp. Sao gọi là nhân duyên các pháp? Nhân duyên các pháp từ tứ đại khởi. Tứ đại là đất nước lửa gió. Lại nên quán gió từ bốn phương khởi. Từng cơn gió giống như rắn lớn, đều có bốn đầu trên hai dưới hai. Trong rất nhiều tai đều phát ra gió. Lúc quán này thành gió biến thành lửa. Từng con rắn độc phun ra các núi lửa. Núi cao ngất rất đáng sợ hãi. Có các dạ-xoa đứng trong núi lửa, thân chuyển động hút lửa, lỗ chân lông phát ra gió. Biến trạng như thế đầy khắp một nhà. Ðầy một nhà rồi lại đầy hai nhà. Ðầy hai nhà rồi lần lần rộng lớn đầy một do tuần. Ðầy một do tuần rồi đầy hai do tuần. Ðầy hai do tuần rồi đầy ba do tuần. Ðầy ba do tuần rồi lại chuyển rộng lớn đầy Diêm-phù-đề. Thấy các dạ-xoa ở trong núi lửa hút lửa đội núi, lỗ chân lông phát ra gió, kinh hoàng chạy khắp Diêm-phù-đề. Lại sợ dạ-xoa nhân đó bức bách hành giả. Lúc thấy việc này tâm rất kinh sợ nên cần đổi phép quán. Ðổi phép quán là trước quán tượng Phật đoan nghiêm trong các hỏa quang, nhất nhất tưởng tượng Phật một trượng sáu. Lúc tưởng này thành lửa dần dần tiêu tan biến thành hoa sen. Rất nhiều núi lửa như vàng ròng tụ tập trong ngoài chiếu suốt. Các quỷ dạ-xoa như người ngọc trắng. Chỉ có phong đại quay lại thổi dịu dàng các hoa sen. Vô số hóa Phật đứng trong hư không phóng hào quang lớn như núi kim cang. Lúc đó gió lặng bất động. Bốn con rắn độc phun nước. Nước ấy năm màu đầy khắp một cái giường. Ðầy một giường rồi lại đầy hai giường. Ðầy hai giường rồi kế đầy ba giường. Như thế cho đến đầy khắp một nhà. Ðầy một nhà rồi kế đầy hai nhà. Ðầy hai nhà rồi kế đầy ba nhà. Như thế cho đến đầy khắp mười nhà. Ðầy mười nhà rồi, trong nước năm màu, mỗi màu đều có ánh sáng trắng như cờ pha lê. Có mười bốn lớp nước trắng đoạn đoạn đều trống không, vọt ra trụ lại trong hư không.

Lúc tưởng này thành, hành giả tự thấy có một con rồng độc trong tim bên trong thân. Rồng có sáu đầu, quấn tim bảy vòng. Hai đầu phun nước, hai đầu phun lửa, hai đầu phun đá, trong tai phát ra gió. Mỗi lỗ chân lông của thân sinh ra ra chín mươi chín con rắn độc. Những con rắn như thế hai trên hai dưới. Các con rồng phun ra nước từ dưới chân, chảy vào nước trắng. Như thế dần dần đầy một do tuần đều thấy việc này. Ðầy một do tuần rồi lại đầy hai do tuần. Ðầy hai do tuần rồi đầy ba do tuần. Như thế cho đến đầy Diêm-phù-đề. Ðầy Diêm-phù-đề rồi, lúc đó rồng độc từ bụng bò ra dần dần hướng lên vào trong mắt. Từ mắt mà ra trụ trên đỉnh đầu. Bấy giờ trong nước có một cây lớn, cành lá xòe ra bốn bên che khắp tất cả. Như thế rồng độc không lìa thân mình(?) le lưỡi trên cây. Trên lưỡi của con rồng này có tám trăm quỷ. Có quỷ thần đội núi trên đầu, hai tay như rắn, hai chân giống chó. Lại có quỷ thần đầu giống đầu rồng. Lỗ chân lông của toàn thân có trăm ngàn mắt. Trong mắt lửa phát ra. Răng như núi dao uyển chuyển trên đất. Lại có ác quỷ, mỗi quỷ có 99 đầu, 99 tay ( ?), hình trạng của đầu cực kỳ xấu xí, giống chó, dã can, chồn, mèo, cáo, chuột. Những quỷ này cổ đều đeo con khỉ. Những ác quỷ này du hý trong nước, hoặc có con nhảy nhót vọt phóng lên cây. Có quỷ dạ-xoa trên đầu lửa cháy. Những con khỉ này dùng nước diệt lửa, nhưng không chế ngự được, bèn khiến tăng lên. Lửa dữ dội này từ trong nước, bên cạnh cờ pha lê bỗng nhiên cháy mạnh đốt cháy cờ pha lê chảy ra như vàng ròng chói lọi, kế tiếp nhau vòng quanh thân mười vòng rồi trụ trên hành giả như cái lộng vàng thật. Có các mạng lưới phủ khắp trên cây. Lộng vàng ròng này đầy đủ ba lớp. Bấy giờ dưới đất bỗng nhiên lại có bốn đại ác quỷ, có trăm ngàn tai. Tai vọt ra nước và lửa. Trong lỗ chân lông của thân mưa các bụi nhỏ.Trong miệng thổi ra gió tràn đầy thế giới. Có 84.000 qủy la-sát, hai răng xỉ lên cao một do tuần. Trong lỗ chân lông của thân lửa sấm sét nổi lên. Chúng quỷ như thế chạy giỡn trong nước. Lại có hổ lang, sư tử, chó sói, heo, chim thú từ núi lửa túa ra du hý trong nước. Lúc thấy việc này thì lớp lớp người xương đầy cả thế giới Sa-bà. Lúc mỗi người đưa tay phải lên thì các la-sát tay cầm chỉa đưa cao, những người xương tụ tập một chỗ. Bấy giờ lại có người xương chín màu hàng hàng thứ tự đi đến chỗ hành giả. Trăm ngàn cảnh giới quá nhiều như thếâ không thể nói hết.

 Ðức Phật bảo A-nan: Lúc tưởng này thành gọi là quán tứ đại. Ông khéo thọ trì, cẩn thận chớ để quên mất.

Bấy giờ A-nan nghe Ðức Phật nói vui vẻ phụng hành.

Lúc tưởng này thành gọi là quán địa đại, quán hỏa đại, quán phong đại, quán thủy đại thứ 12. Cũng gọi là 98 cảnh giới kiết sử.

 

 

Quyển 2

 

Ðời Diêu Tần Ngài Tam tạng Pháp sư Cưu-ma-la-thập... dịch.

 

XIII. Ðức Phật bảo A-nan: Tưởng này thành rồi lại nên buộc niệm trụ ý quán kỹ xương sống trong eo lưng. Tưởng các xương sống trắng như ngọc tuyết. Thấy xương sống rồi, thấy xương toàn thân đốt đốt chống lên nhau, lại trở nên sáng sạch trắng như pha lê. Thấy từng đốt xương lớn nhỏ, mỗi xương đều sáng như gương pha lê. Hỏa đại, phong đại, địa đại, các cảnh giới đều hiện trong một đốt xương. Lúc tưởng này thành, thấy đất phương dưới từ dưới giường dần dần từ đó mở ra. Thấy đất dưới một giường rồi, lại thấy đất dưới hai giường. Thấy đất dưới hai giường rồi, lại thấy đất dưới ba giường. Thấy đất dưới ba giường rồi, dần dần thấy trong một nhà. Thấy trong một nhà rồi kế thấy trong hai nhà. Thấy trong hai nhà rồi dần dần thấy trong ba nhà. Thấy trong ba nhà rồi, lại thấy đất trong một sân dần dần từ đó mở ra. Lúc thấy việc này phải nên quán kỹ, cho đến phương dưới không có chướng ngại. Trong phong luân phương dưới có các gió nổi dạy. Các dạ-xoa hướng đến đều hút gió này. Hút gió này rồi các lỗ lông của thân sanh cưu-bàn-đồ. Mỗi cưu-bàn-đồ phun ra các núi lửa đầy đại thiên thế giới. Trong các núi ấy bỗng nhiên lại có vô lượng gái đẹp, trống nhạc đờn ca đến trước hành giả. La-sát lại đến tranh giành ăn thịt. Hành giả thấy rồi rất kinh sợ không tự kềm giữ được. Lúc xuất định luôn luôn lo âu, lòng đau, xương đỉnh đầu muốn vỡ. Nhiếp tâm nhập định như trước đều thấy cảnh giới tứ đại. Thấy cảnh giới này rồi, nhờ định lực tự thấy thân thể trắng như người ngọc. Trên mỗi đốt xương lửa cháy, dưới mỗi đốt xương nước chảy, trong tai gió thổi, trong mắt mưa đá. Thấy việc này rồi, ở dưới đất phía trước có mười con rắn độc, thân dài lớn năm trăm do-tuần, có 1.200 chân, chân giống như rồng độc, thân túa ra lửa và nước, uốn lượn ở đất. Lúc tưởng này thành chỉ nên chí tâm sám hối tội trước. Lúc xuất định không được nói nhiều. Ở chỗ vắng lặng nhứt tâm buộc niệm, chỉ trừ giờ ăn. Lại nên sám hối, dùng bơ và thuốc, sau đó mới nên đổi phép quán này.

Ðức Phật bảo A-nan: Quán này gọi là quán tứ đại thứ hai. Ông khéo thọ trì, cẩn thận chớ để quên mất.

Bấy giờ A-nan nghe Ðức Phật nói vui vẻ phụng hành.

Lúc tưởng này thành gọi là quán kiết sử căn bản thứ 13 xong.

   

XIV. Ðức Phật bảo A-nan: Tưởng này thành rồi lại nên đổi phép quán. Ðổi phép quán là lúc hỏa đại động, nên khởi tưởng núi. Nên tưởng các núi giống như băng sương bị lửa làm chảy ra. Lửa dữ như thế cháy rất mãnh liệt. Lúc lửa cháy mạnh thân thể nóng như chưng cách thủy. Lại tưởng rồng mưa đá để dập lửa dữ. Lại nên tưởng đá nát như bụi. Rồng lại phun gió làm tụ các bụi nhỏ chứa đến thành núi. Vô lượng cây rừng gai gốc bụi rậm đều tự nhiên sanh. Bấy giờ nước trắng đầy đủ năm sắc chảy giữa những cây gai. Những nước như thế chứa trên đỉnh núi, giống như chứa băng đông lại bất động. Tưởng này thành rồi gọi là phép quán thay đổi thứ 14.

Ðức Phật bảo A-nan: Nếu có tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di nào thiền định, chánh thọ thì ông nên dạy phép quán thay đổi này, cẩn thận chớ để quên mất. Quán tứ đại này nếu có người đắc thì Phật cho dùng bơ, thịt, các thuốc uống. Lúc ăn thịt, trước phải rửa khiến không còn mùi vị, nên tưởng như người đời đói mà ăn thịt con. Nay thân ta đây nếu không ăn thịt thì phát cuồng mà chết. Do đó lúc Ðức Phật ở nước Xá-vệ cho phép các thầy tỳ-kheo vì tu thiền nên được ăn thịt có ba sự thanh tịnh.

Bấy giờ A-nan nghe Ðức Phật nói vui vẻ phụng hành

Ðức Phật bảo A-nan: Dạy phép quán thay đổi này rồi lại phải dạy lại phép buộc niệm trụ ý như trước. Quán kỹ xương sống lại khiến trắng sạch hơn trước vài lần. Ở giữa hai đốt xương nhờ sáng sạch nên thấy được tất cả các sự dơ xấu. Lúc tưởng này thành nên tự quán thân thành một người xương, giữa các đốt xương trắng sạch sáng tỏ như gương pha lê. Quán tất cả người xương trong Diêm-phù-đề và tứ đại có bao nhiêu cảnh giới đều hiện ra trong một khớp xương. Thấy việc này rồi, thấy những người xương từ phương đông lại hướng đến hành giả, xếp hàng thứ tự số như bụi nhỏ. Như thế , những người xương trắng đều xếp hàng thứ tự đi đến hành giả đầy thế giới Sa-bà ở phương đông. Phương nam, tây, bắc, bốn gốc, trên, dưới cũng lại như vậy. Lại có người xương màu xanh xếp hàng thứ tự đi đến hành giả đầy cõi Diêm-phù-đề, dần dần rộng lớn, cho đến đầy thế giới Sa-bà ở phương đông. Phương nam, tây, bắc, bốn gốc, trên, dưới cũng lại như vậy. Lại có người xương màu như bùn đọng, hàng hàng nối nhau đi đến hành giả, đầy cõi Diêm-phù-đề, dần dần rộng lớn, cho đến đầy thế giới Sa-bà ở phương đông. Phương nam, tây, bắc, bốn gốc, trên, dưới cũng lại như vậy. Lại có người xương màu như nước đục, hàng hàng nối nhau đi đến hành giả, đầy cõi Diêm-phù-đề, dần dần rộng lớn, cho đến đầy thế giới Sa-bà ở phương đông. Phương nam, tây, bắc, bốn gốc, trên, dưới cũng lại như vậy. Lại có người xương màu đỏ, hàng hàng nối nhau đi đến hành giả, đầy cõi Diêm-phù-đề, dần dần rộng lớn, cho đến đầy thế giới Sa-bà ở phương đông. Phương nam, tây, bắc, bốn gốc, trên, dưới cũng lại như vậy. Lại có người xương màu hồng, hàng hàng nối nhau đi đến hành giả, đầy cõi Diêm-phù-đề, dần dần rộng lớn, cho đến đầy thế giới Sa-ba ở phương đông. Phương nam, tây, bắc, bốn gốc, trên, dưới cũng lại như vậy. Lại có người xương thân máu mủ dơ bẩn, hàng hàng nối nhau đi đến hành giả, đầy cõi Diêm-phù-đề, dần dần rộng lớn, cho đến đầy thế giới Sa-bà ở phương đông. Phương nam, tây, bắc, bốn gốc, trên, dưới cũng lại như vậy. Lại có người xương màu vàng, hàng hàng nối nhau đi đến hành giả, đầy cõi Diêm-phù-đề, dần dần rộng lớn, cho đến đầy thế giới Sa-bà ở phương đông. Phương nam, tây, bắc, bốn gốc, trên, dưới cũng như vậy. Lại có người xương màu lục, hàng hàng nối nhau đi đến hành giả, đầy coiõ Diêm-phù-đề, dần ần rộng lớn, cho đến đầy thế giới Sa-bà ở phương đông. Phương nam, tây, bắc, bốn gốc, trên, dưới cũng lại như vậy. Lại có người xương màu tía, hàng hàng nối nhau đi đến hành giả, đầy cõi Diêm-phù-đề, dần dần  rộng lớn, cho đến đầy cả thế giới Sa-ba ở phương đông. Phương nam, tây, bắc, bốn gốc, trên, dưới cũng lại như vậy. Lại có người xương màu bịnh ghẻ na-lị, giữa những khớp xương chảy ra mười sáu  màu mủ lộn xộn dơ bẩn, hàng hàng nối nhau đi đến hành giả, đầy cõi Diêm-phù-đề, dần dần rộng lớn, cho đến đầy cả thế giới Sa-bà ở phương đông. Phương nam, tây, bắc, bốn gốc, trên, dưới cũng lại như vậy.

Lúc tưởng này thành, hành giả kinh sợ. Thấy các dạ-xoa muốn đến ăn mình. Bấy giờ lại thấy những người xương, lửa nổi lên ở mỗi đốt xương, nối nhau cháy sáng đầy khắp thế giới Sa-bà. Lại thấy trên đỉnh đầu người xương vọt ra nước như cờ pha lê. Lại thấy tất cả lửa trên đầu người xương biến thành núi đá. Lúc đó lỗ tai của những con rồng phát ra gió, thổi lửa động núi. Khi ấy các núi xoay về trụ trong hư không như cái bàn của người nung đồ gốm mà không bị phân tán ngăn ngại. Thấy việc này rồi rất kinh sợ. Vì kinh sợ nên có một ức quỷ gánh núi, phun lửa hình trạng mỗi khác đi đến chỗ ấy.

Ðức Phật bảo A-nan: Nếu có tỳ-kheo chánh niệm an trụ, tu không phóng dật thì lúc thấy việc này nên dạy các phép quán không, vô ngã. Lúc xuất định cũng nên khuyến tấn để đến người có trí tuệ hỏi về nghĩa không rất sâu. Nghe nghĩa không rồi phải nên tự quán thân mình, thấy do dựa vào nhân bất tịnh của cha mẹ hòa hợp hình thành, gân ràng buộc, máu dơ bẩn, ba mươi sáu vật ô uế không sạch, thuộc các nghiệp duyên từ vô minh khởi. Nay quán thân này thấy không có một cái gì đáng yêu mến, như vật hư nát. Lúc tư duy như thế, những người xương đều đến bức bách mình. Nên duỗi cánh tay để chỉ và hạch hỏi những người xương, đồng thời quán niệm như sau: Người xương này từ tư tưởng hư vọng và phân biệt mà hiện. Thân ta cũng thế, từ tứ đại sanh, cùng ở chỗ thôn lạc lục nhập. Huống là những xương từ hư vọng xuất. Lúc quán niệm này, những người xương trắng nát tan như bụi, tích tụ trên đất như núi tuyết trắng. Rất nhiều người xương tạp sắc có một con rắn hổ mang lớn thình lình nuốt thức ăn. Trên núi tuyết trắng có một người bạch ngọc thân thể đoan nghiêm, cao ba mươi sáu do tuần, cổ đỏ như lửa, mắt có bạch quang. Lúc nước trắng và cờ pha lê đều tự nhiên vào đỉnh đầu người bạch ngọc thì các loại rồng, quỷ, rắn, rắn hổ mang, khỉ, sư tử, chồn, mèo đều kinh chạy, sợ lửa lớn nên tìm đến nương tựa trên và dưới cây. Chín mươi chín con rắn thân có lỗ chân lông đều ở trên cây. Bấy giờ rồng độc uốn lượn vòng quanh cây. Lại thấy voi đen đứng bên gốc cây.

Lúc thấy việc này phải nên dùng tâm thâm thiết sám hối sáu thời, không thích nói nhiều, ở chỗ thanh vắng, tư duy về các pháp không. Trong các pháp không, không có đất nước, cũng không lửa gió. Sắc là điên đảo từ huyễn pháp sanh. Thọ là nhân duyên từ các nghiệp sanh. Tưởng là điên đảo, là pháp không trụ. Thức là bất kiến thuộc các nghiệp duyên, sanh các loại tham ái. Quán kỹ thân này thấy đủ loại như thế. Ðịa đại từ không thấy có, thấy không cũng không thì nói thế nào chắc thật. Tưởng địa đại như thế thì suy xét giải thích thế nào là địa. Quán như thế rồi gọi là quán ngoại địa. Nhứt nhứt quán kỹ địa đại vô chủ. Lúc tưởng như thế, thấy núi xương trắng lại hoại nát giống như bụi nhỏ. Chỉ người xương ở trong khoảng bụi nhỏ có các ánh sáng trắng cùng kềm giữ liền nhau. Trong ánh sáng trắng lại sinh các loại ánh sáng bốn màu. Trong ánh sáng bốn màu lửa lại nổi lên mãnh liệt thiêu các dạ-xoa. Lúc các dạ-xoa bị lửa bức bách đều nhảy lên cây. Chưa lên trên cây thì bị voi đen giẫm đạp. Dạ-xoa phun ra lửa đốt chân voi đen. Lúc đó voi đen phát ra tiếng rống như tiếng rống của sư tử, diễn thuyết pháp khổ, không, vô thường, vô ngã, cũng nói thân này là pháp bại hoại, không lâu sẽ bị hủy diệt. Voi đen nói rồi đánh với dạ-xoa. Dạ-xoa dùng chỉa lớn đâm tim của voi đen. Voi đen lại rống lên một tiếng làm một phần đất chấn động. Lúc đó rễ thân cánh lá của cây lớn dao động cùng một lúc. Rồng cũng phun lửa muốn đốt cây này . Những con rắn kinh sợ trườn ra, mỗi con duỗi ra chín mươi chín đầu để cứu cây này. Lúc đó dạ-xoa kinh hãi đứng dậy, tay cầm đá lớn muốn ném voi đen. Voi đen liền đến trước dùng vòi quấn đá ném trên cây. Ðá đến trên cây hình giống núi dao. Những dạ-xoa này phấn chấn nhảy lên, các lỗ chân lông của thân mình hiện ra những con rồng độc. Rồng có bốn đầu phun khói lửa rất đáng sợ.

Lúc tưởng này thành, tự thấy thân mình, nơi tim trong thân sâu như hầm giếng. Trong giếng có rắn phun độc trên dưới. Có ngọc ma-ni hiện ra trên giếng, được buộc treo lơ lửng bằng mười bốn sợi tơ. Lúc rắn độc đó ngước lên, miệng táp viên ngọc không thể được, thì buông mình rơi xuống đất hôn mê. Lúc đó lửa trong miệâng lại trở về vào trong đỉnh đầu. Hành giả nếu thấy việc này thì nên sám hối. Xin ăn theo ý thích để điều hòa tứ đại, khiến cực an ổn. Nên ngồi trong nhà kín, nơi không có tiếng chim sẻ.

Ðức Phật bảo A-nan: Nếu có tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di đắc được quán này thì gọi là đắc quán địa đại. Nên chuyên cần buộc niệm, cẩn thận chớ phóng dật. Nếu tu không phóng dật, hành nhanh hơn nước chảy thì sẽ được đảnh pháp. Tuy còn lười nhác mà đã xả bỏ nơi tam đồ ác đạo. Khi xả báo thân, qua đời sau sẽ sanh về cõi trời Ðâu-suất được gặp Bồ-tát Di-lặc nói cho các pháp khổ, không, vô thường...hoát nhiên ý mở, thành tựu quả A-na-hàm.

Ðức Phật bảo A-nan: Nay ông nên thọ trì pháp quán địa đại một cách nghiêm cẩn, hãy thận trọng chớ để quên mất. Vì tất cả chúng sanh đời sau phu diễn nói rộng.

Bấy giờ A-nan nghe Ðức Phật nói vui vẻ phụng hành.

Ðắc quán này gọi là quán địa đại thứ 14 xong. Cũng gọi là phân biệt tướng mạo của địa đại. Cũng gọi là thấy tướng thô của ngũ ấm. Người có trí tuệ cũng tự biết được kiết sử nhiều ít. Trong tứ niệm xứ gọi là thân niệm xứ. Chỉ thấy ngoài thân , chưa thấy trong thân. Cảnh giới của thân niêm xứ là phần đầu tiên trong bốn phần. Ðắc quán này thân tâm vui vẻ, ít tranh tụng.

Ðức Phật bảo A-nan: Tưởng này thành rồi, kế nên quán lửa ngoài thân, từ nhân duyên mà có. Có duyên thì khởi, duyên lìa thì diệt. Nhiều lửa như thế , không từ đâu đến cũng không đi đâu, biến diệt không rõ, trọn không tạm dừng. Lúc tư duy như thế, lửa ngoài liền diệt, lại không hiện lại. Ngoài ra, lại nên tư duy nước sông lớn sông nhỏ, nước ao, nước chảy...là do sức rồng biến hóa tạo thành. Nay ta vì sao thấy nước này một cách trái ngược. Những nước này không từ đâu đến, không đi về đâu. Lúc tư duy như thế nước ngoài không hiện. Lại nên khởi niệm gió này và hư không với tiếng rống của rồng mượn duyên mà có. Tưởng như thế cũng không ở trong cũng không ở ngoài, không ở giữa, mà do tâm điên đảo nên thấy việc này một cách trái ngược. Lúc tư duy như vậy gió ngoài không khởi.

Lại nên buộc niệm tư duy xương sống trong thân. Thấy xương trong thân trắng như ngọc tuyết, có ba mươi sáu vật dơ xấu bất tịnh trong mỗi một đốt xương đều hiện ở trong. Lại thấy da của thân giống như túi da, đầy vật bất tịnh, móng tay móng chân lở loét vô lượng, trăm ngàn bịnh ung nhọt đều ở trong. Mủ chảy ra giọt giọt không dứt. Nên trên đầu người xương rất đáng chán ngán lo âu. Hoặc thấy ngũ tạng trong thân đều đi vào trong ruột già. Ruột già phình trướng hư nát chảy nước khó chịu. Bấy giờ hành giả nhờ định lực nên xuất định nhập định, thấy tất cả người và thân mình đồng là vật tụ tập bất tịnh. Thấy thân những người nữ như chó trùng dơ xấu bất tịnh. Tự nhiên sẽ đắc tưởng không tham sắc.

Ðức Phật bảo A-nan: Lúc tưởng này thành gọi là quán tứ đại ở ngoài thứ 14. Cũng gọi là học hiểu dần quán không. Ðức Phật bảo A-nan: Ông hãy trì giữ lời Phật, cẩn thận chớ để quên mất.

Bấy giờ A-nan nghe Ðức Phật nói vui vẻ phụng hành.   

 

XV. Ðức Phật bảo A-nan: Tưởng này thành rồi lại nên dạy buộc niệm quán kỹ địa đại trong thân. Ðịa đại trong thân là xương, răng, móng, lông, ruột, bao tử, bụng, gan, tim, phổi, những vật chắc thật đều là địa đại, do tinh khí tạo thành. Chúng ta biết địa ở ngoài vô thường. Ví như đại địa, khi hai mặt trời xuất hiện thì địa đại khô bỏng. Khi ba mặt trời xuất hiện thì sông lớn, sông nhỏ, hồ, ao đều khô kiệt. Khi bốn mặt trời xuất hiện thì biển lớn ba phần giảm hai. Khi năm mặt trời xuất hiện thì biển lớn khô hết. Khi sáu mặt trời xuất hiện thì địa đại bốc cháy. Khi bảy mặt trời xuất hiện thì địa đại cháy hết. Ðịa ở ngoài còn như vậy, thế không lâu bền, huống là địa trong thân lại kiên cố sao? Bấy giờ hành giả nên tự tư duy: Nay thân này của ta tóc là ngã ư, móng là ngã ư, xương là ngã ư, ngũ tạng là ngã ư? Quán kỹ như thế thì thấy những chi tiết của thân đều không có ngã. Tự quán các xương, quán kỹ từng xương này từ nơi nào sanh. Lúc cha mẹ hòa hợp hai chất tinh trắng đỏ, lúc thì như sữa, lúc thì như bọt, lúc thì như ca-la-la, lúc thì như an-phù-đà. Những khi như thế, nơi nào có xương. Nên biết xương này vốn không. Nay có rồi, có lại không. Xương này đồng với tướng hư không. Ðịa ngoài vô thường địa trong cũng vậy. Lúc tư duy như thế, quán kỹ tất cả xương của thân mình tự nhiên vỡ tan giống như vi trần. Nhập định quán xương chỉ thấy xương xứ, không thấy xương tướng. Xuất định thấy thân như trước không khác.

Lại nên quán lửa trong thân do lửa ngoài mà có. Lửa ở ngoài vô thường không có lúc tạm dừng. Nay lửa trong thân ta do đâu mà nóng lâu dài. Khi quán như thế, quán tất cả ánh sáng của lửa trên các xương đều diệt không hiện.

 Lại nên quán nước trong thân. Nước này của ta do nước ngoài mà có. Nước ngoài vô thường, thế không lâu dài, nước trong thân cũng vậy, mượn duyên mà có. Nơi nào có nước và tụ tập bất tịnh?

Gió ở ngoài vô thường, thế không lâu dài, từ nhân duyên sanh, lại từ duyên diệt. Nay trong thân ta có bao nhiêu gió, giả ngụy hợp thành, miễn cưỡng là bộ phận trọng yếu chớ nơi nào có gió, do vọng tưởng khởi là thấy điên đảo. Lúc tư duy như thế không thấy gió trong thân và lỗ tai của các con rồng có bao nhiêu gió đều diệt không hiện.

Tự tư duy kỹ các pháp như thế thì nơi đâu có người và đất, nước, lửa, gió? Quán địa này là pháp bại hoại, quán hỏa này giống như huyễn, lại quán phong này từ điên đảo khởi, quán thủy này từ tưởng hư vọng hiện. Lúc quán như thế, hành giả thấy thân giống như cây chuối không chắc thật. Hoặc tự thấy tim như bọt trên nước, nghe các tiếng ở ngoài giống như tiếng trong hang. Lúc quán như thế, thấy tất cả ánh sáng của lửa trên các xương, thấy nước sáng trắng, thấy gió của các con rồng (tạo ra) đều ở một chỗ. Quán thân vắng lặng không phân biệt thân tướng. Thân tâm an ổn điềm nhiên vui thích. Như cảnh giới này gọi là quán tứ đại thứ 15 xong.

Ðức Phật bảo A-nan: Nay ông nên chí tâm thọ trì phép quán tứ đại này, cẩn thận chớ để quên mất. Vì tất cả chúng sanh đời sau, nên diễn thuyết rộng.

Bấy giờ A-nan nghe Ðức Phật nói vui vẻ phụng hành.

 

XVI. Lúc quán này, vì học quán không khiến thân hư tâm lao  nên dùng bơ và các thuốc bổ. Ở trong thiền định sâu nên quán tưởng bồi bổ. Quán tưởng bồi bổ là trước tự quán thân, khiến da lớp lớp bọc nhau giống như cây chuối, rồi sau an tâm, tự tưởng khai mở đỉnh đầu. Lại nên khuyến tấn Ðế thích, Phạm vương, chư thiên hộ đời cầm bình vàng đầy thiên dược_ Thích Ðề-hoàn Nhơn ở bên trái, chư thiên hộ đời ở bên phải, cầm thiên dược rưới trên đỉnh đầu và khắp toàn thân. Ngày đêm sáu thời hằng quán tưởng này. Nếu lúc xuất định thì tìm các thuốc bổ, dùng thức ăn uống tốt, luôn luôn ngồi an ổn khoái lạc gấp đôi lúc thường. Tu như thế bồi bổ thân qua ba tháng rồi, nhiên hậu mới quán niệm các cảnh giới khác. Do sức thiền định chư thiên hoan hỷ. Lúc Thích Ðề-hoàn Nhơn thuyết cho pháp không, vô ngã rất sâu và khen ngợi, thì hành giả đầu mặt kính lễ. Nhờ uống thiên dược, nên lúc xuất định nhan sắc hòa vui, thân thể thắm đượm như bôi dầu mở. Thấy việc này gọi là quán tứ đại thứ 16 xong.

 

XVII. Ðức Phật bảo A-nan: Tưởng này thành rồi lại phải dạy buộc niệm trụ ý để quán ngoại sắc. Tất cả sắc từ nơi nào sanh. Lúc quán này, thấy năm sắc bên ngoài như hào quang năm sắc vây quanh thân mình. Lúc tưởng này hiện, tự quán thân, từng xương ngực dần dần sáng sạch như gương pha lê, sáng tỏ khả ái. Lại thấy ngoại sắc, từng sắc sáng như ánh sáng mặt trời. Lúc đắc quán này, bốn phương tự nhiên sanh bốn voi đen. Voi đen hét lớn đạp lên các sắc tiêu mất. Như thế, các sắc trên đất diệt mất, màu đen và vàng ở trong hư không khả ái gấp đôi lúc thường. Bấy giờ voi lớn dùng vòi quấn cây. Bốn con voi ở bốn bên muốn nhổ cây này mà không thể nghiêng động. Lại có bốn con voi dùng vòi quấn cây cũng không chuyển động. Bấy giờ hành giả thấy việc này rồi, lúc xuất định nên ở chỗ vắng. Hoặc trong gò mả, hoặc dưới gốc cây, hoặc chỗ a-luyện-nhã, che thân kín đáo. Phải nên vắng lặng, lại tìm thuốc tốt để bồi bổ thân mình. Tu tập pháp dược bổ thân như trên qua ba tháng, nhứt tâm tinh tấn như cứu lửa cháy đầu, tâm không phóng dật. Ðối với giới đã thọ không khởi tâm hủy phạm. Ngày đêm sáu thời sám hối các tội. Lại tư duy thân không, ngã không. Quán kỹ từng cảnh giới như trước khiến cực sáng tỏ. Lúc tưởng này thành, xương ngực dần dần sáng, giống như ngọc thần, trong ngoài chiếu suốt. Rắn độc trong tim lại vươn mình bay lên trụ trong hư không, trong miệng có lửa, muốn táp châu ma-ni, nhưng hoàn toàn không thể được. Mất thăng bằng buông mình rơi xuống đất như trước, thân tâm bất tỉnh, vọng thấy bốn phương. Bấy giờ các con voi lại tranh nhau chạy đến chỗ cây. Lúc đó những dạ-xoa, la-sát, ác thú, rồng, rắn... đồng thời phun độc, đánh voi đen. Khi đó voi đen dùng vòi quấn cây hét lên rồi lôi đi. Lúc voi lôi cây, các rồng, dạ-xoa phun độc chận đánh phía trước, không chịu dừng. Bấy giờ dưới đất có một con sư tử, hai mắt sáng rực giống như kim cương bỗng nhiên vọt ra, đánh các con rồng. Lúc đó những con rồng vọt lên trụ trong hư không. Còn voi cứ kéo cây mãi không dừng, đất dần dần rung động. Lúc đất động, hành giả nên quán đất này từ không mà có, chẳng phải là pháp chắc thật. Ðất này như thành càn-thát-bà, như ngựa hoang đi, từ hư vọng xuất, duyên nào mà động. Lúc tư duy như thế tự thấy xương ngực cho đến xương mặt của thân mình dần dần sáng sạch. Thấy các thế gian, tất cả có bao nhiêu đều sáng tỏ. Lúc đắc quán này như cầm gương sáng, tự xem hình tượng mặt mày. Bấy giờ hành giả thấy tất cả các sắc và các vật bất tịnh ngoài thân. Cũng thấy tất cả bất tịnh trong thân . Lúc tưởng này thành gọi là quán thân niệm xứ thứ 17.

Ðức Phật bảo A-nan: Ông khéo thọ trì phép quán đảnh chương cú thân niệm xứ này, cẩn thận chớ để quên mất. Khai pháp môn cam lồ, vì tất cả chúng sanh vị lai, nên diễn nói rộng.

Bấy giờ A-nan nghe Ðức Phật nói vui vẻ phụng hành.

 

XVIII. Ðức Phật bảo A-nan: Tưởng này thành rồi lại phải dạy buộc niệm tư duy quán kỹ xương mặt. Tự thấy xương mặt như gương bạch ngọc, trong ngoài đều rất sạch như gương sáng, dần dần rộng lớn. Thấy xương toàn thân trắng như gương pha lê, trong ngoài đều sạch. Tất cả các sắc đều hiện ở trong. Trong chốc lát thấy thân như người bạch ngọc. Lại thấy lặng trong như ngọc tỳ-lưu-ly, trong ngoài đều rỗng không. Tất cả các sắc đều hiện ở trong.

Lại thấy thân mình như người bạch ngân, chỉ còn lớp da mỏng. Da cực mỏng, mỏng hơn một loại vải trắng dệt bằng sợi cây kiếp- bối của trời, trong ngoài chiếu suốt.

Lại thấy thân mình như người Diêm-phù-đàn-na-kim, trong ngoài đều rỗng không.

Lại thấy thân mình như người kim cương.

Lúc thấy địa này, voi đen nhiều gấp bội dùng vòi quấn cây, vận hết sức thân mình, nhưng cây bất động. Bấy giờ các con voi hét lên dữ dội kinh động đại địa. Lúc đại địa động, có núi kim cang từ đất phương dưới xuất hiện trụ ở trước hành giả. Bấy giờ hành giả thấy bốn bên mình có núi kim cang. Lại thấy đất phía trước giống như kim cang. Ðồng thời thấy những con rồng tìm (cái gì) trên, dưới cây và phun ra ngọc kim cang. Cây trở nên kiên cố, voi không làm lay động được. Chỉ có nước năm sắc từ trên cây xuất hiện chảy ngược lên cành cây, rồi từ trên đọt cây chảy xuống trong lá cho đến thân cây. Cũng chảy trong núi kim cang lan tràn đầy khắp đại địa, dưới đất kim cang cho đến núi kim cang. Nước năm sắc này phóng hào quang năm sắc hoặc trên hoặc dưới qua lại vô thường. Bấy giờ voi đen từ núi kim cang đi ra muốn hút nước này. Những con rồng phun độc đánh voi lớn. Lúc đó những con rắn vào trong tai của rồng hợp lực gây thanh thế cùng đánh voi đen. Bấy giờ voi đen hết sức thất điên bát đảo nhưng cũng không sao.

Lúc thấy việc này, những ánh sáng của nước đều biến thành kỹ nhạc. Hoặc biến hóa hình trạng giống như thiên nữ ca vịnh tấu nhạc rất khả ái vui tươi. Những người con gái này đoan chính, ở trên trời và cõi người không bằng được. Nhạc được tấu với âm thanh huyền diệu dù trên trời Ðao-lợi cũng không sánh kịp. Hóa nữ như thế trình diễn vài ức thiên vạn kỹ thuật, không thể nói hết. Lúc thấy việc này, cẩn thận chớ mê đắm theo, phải nên buộc tâm nhớ bất tịnh trước.

Lúc xuất định nên đến người có trí tuệ hỏi về nghĩa không rất sâu. Bấy giờ người trí nên vì hành giả nói về vô ngã không. Hành giả lại nên buộc niẹâm như trước, tự quán xương thân. Tự thấy xương ngực sáng sạch khả ái, tất cả bất tịnh đều hiện ở trong. Thấy việc này rồi nên tự tư duy về mình như sau: Tóc là ngã ư, xương là ngã ư, móng là ngã ư, răng là ngã ư, sắc là ngã ư, thọ là ngã ư, tưởng là ngã ư, thức là ngã ư. Nhứt nhứt quán kỹ, vô minh là ngã ư, hành là ngã ư, thức là ngã ư, danh sắc là ngã ư, lục nhập là ngã ư, xúc là ngã ư, thọ là ngã ư, ái là ngãø ư, thủ là ngã ư, hữu là ngã ư, sanh là ngã ư, lão tử là ngã ư. Nếu tử là ngã, lúc các trùng ăn, tan diệt hoại mất thì ngã ở đâu? Nếu sanh là ngã thì niệm niệm không dừng, tư tưởng không thường trụ ở trong sanh này. Nên biết sanh này cũng chẳng phải là ngã. Nếu đầu là ngã thì sao tám đoạn xương đầu khớp khớp mỗi khác, trong não sinh trùng, quán trong đầu này thì thấy thật vô ngã. Nếu mắt là ngã thì sao trong mắt đất và nước không thật, mượn lửa làm ánh sáng, mượn gió chuyển động. Lúc tan diệt hư nát, chim quạ, bồ cắt... đều đến ăn, lở loét trùng giòi cùng ăn. Quán kỹ mắt này (thì biết vô ngã). Nếu tim là ngã thì sao sức gió chuyển động (trong tim) không có lúc tạm dừng, cũng có sáu con rồng cử động và trong tâm này có vô lượng độc tâm làm căn bản. Suy xét những thứ độc này cùng tâm tính đều từ cái có không thực, vọng tưởng gọi là ngã. Như vậy  các pháp: địa thủy hỏa phong, sắc hương vị xúc và 12 nhân duyên, suy xét kỹ từng pháp một thì nơi nào có ngã? Quán thân đã vô ngã, thì sao gọi là có ngã sở. Ngã sở: Sắc xanh là của ta, sắc vàng là của ta, sắc đỏ là của ta, sắc trắng là của ta, sắc đen là của ta. Năm sắc này từ khả ái mà có, theo sự trói buộc mà sanh nước dục nhiễm trước. Sanh từ sông lão tử, khởi từ giặc ân ái, thấy từ sự si mê. Các sắc như thế thật chẳng phải là ngã. Chúng sanh mê hoặc vướng mắc nói ngang là ngã. Chúng sanh thấy biết hư vọng lại gọi là ngã sở. Tất cả như huyễn thì nơi nào có ngã; thế thì trong pháp huyễn há có ngã sở? Lúc tư duy như thế, tự thấy xương thân sáng sạch khả ái. Việc hiếm thấy của tất cả thế gian đều hiện ở trong. Lại thấy thân mình như người ngọc tỳ-lưu-ly, trong ngoài đêu rỗng không. Như người đội cờ lưu ly ngước nhìn không trung, tất cả đều thấy. Bấy giờ hành giả từ trong thân đến ngoài thân, nhờ quán không, nên giác ngộ pháp vô ngã. Tự thấy hai chân của thân mình như ống lưu ly. Cũng thấy việc hiếm thấy của tất cả thế gian ở phương dưới.

Lúc tưởng này thành thì trên đất phía trước hành giả sáng sạch khả ái như ngọc tỳ-lưu-ly ánh chiếu cực kỳ thông suốt. Người trì giới đầy đủ thấy đất trong sạch như cung điện Phạm vương. Người thiếu oai nghi, tuy thấy đất sạch nhưng giống như thủy tinh.

Lúc tưởng này thành, có vô lượng trăm ngàn vô số dạ-xoa, la-sát đều từ đất xuất hiện. Tay cầm sừng dê trắng, mai rùa, đá trắng đập núi kim cang. Lại có các quỷ tay cầm vồ sắt đập núi kim cang. Lúc đó trên núi có năm quỷ thần ngàn đầu ngàn tay, tay cầm ngàn cây kiếm đánh với la-sát. Rắn độc, rồng độc đều phun chất độc xung quanh núi này. Lại có những người con gái ca vịnh yểu điệu, làm các biến động để hộ giúp núi này.

Nếu thấy việc này nên nhứt tâm quán lúc những người con gái hiện ra. Nên quán những người nữ này giống như đồ bất tịnh, nơi chứa đầy hơi thúi trong bình vẽ, xuất hiện từ hư vọng, đến không có nguyên nhân, đi cũng không chỗ đến. Tướng mạo như thế là do ác nghiệp tội duyên đời trước của mình, nên thấy người nừ này. Người nữ này thấy từ hư vọng, là nhân duyên tham ái của vô số đời vọng tưởng của mình. Nên chí tâm quán pháp vô ngã, thân mình vô ngã, thân người cũng vậy. Những điều thấy này thuộc các nhân duyên, ta không nguyện cầu. Ta quán thân này vô thường bại hoại cũng không có cái ta, thì nơi nào có người và chúng sanh. Tư duy như vậy rồi, nhứt tâm quán kỹ pháp không vô ngã. Lúc quán vô ngã thì mé đất lưu ly phương dưới có bốn đại quỷ thần tự nhiên đi đến vỗ núi kim cang. Lúc đó các dạ-xoa, la-sat cũng giúp quỷ này phá núi kim cang. Núi kim cang dần dần đổ nát, trải qua nhiều thời gian núi cao rộng đều hết, chỉ còn đất kim cang. Bấy giờ những con voi và những ác quỷ đều ra sức kéo cây, cây kiên cố khó lay động.

Thấy việc này rồi lại hoan hỷ sám hối các tội. Sám hối tội rồi, buộc niệm như trước, quán người lưu ly. Trên đất lưu ly, ở bốn phương sinh bốn hoa sen. Hoa ấy màu vàng, cũng có ngàn cánh kim cang làm đài. Có một tượng vàng ngồi kiết già ở phương đông, thân tướng đầy đủ quang minh không thiếu. Phương nam, tây, bắc cũng lại như vậy. Lại thấy thân lưu ly trong sáng tăng lên, trong ngoài thông suốt, không có các chướng ngại. Trong thân ngoài thân đầy hóa Phật. Những hóa Phật này đều phóng hào quang. Hào quang ấy vi diệu như ức ngàn mặt trời chói lọi đoan nghiêm. Hóa Phật đầy khắp tất cả ba ngàn đại thiên thế giới. Mỗi một hóa Phật có 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp. Mỗi một tướng tốt phóng ra ngàn hào quang. Hào quang ấy nhiều như trăm ngàn mặt trời mặt trăng hòa hợp. Trong mỗi một hào quang có vô số Phật . Như thế dần dần lại tăng rộng, số lượng không thể biết. Trong mỗi ánh sáng lại có vô số hóa Phật . Những hóa Phật này uyển chuyển trở về, vào trong thân người lưu ly. Bấy giờ tự thấy thân mình như núi bảy báu cao sáng khả quan. Lại trang nghiêm sáng rỡ như núi Tu-di có bảo vật xen nhau. Núi chiếu sáng trên đất kim cang. Lúc đó đất kim cang lại sáng rỡ như ngọc ma-ni màu xanh sẫm ánh đỏ của cõi trời Diệm-ma. Thân lại chuyển thành trong sáng như hào quang của vô số chư Phật hóa thành đài báu, cũng vào đỉnh đầu người lưu ly. Lại thấy chư Phật ngồi kiết già trên đài hoa sen đầy trong núi Thiết-vi phía trước và giữa hư không không thiếu. Thân của từng hóa Phật đầy thế giới mà các hóa Phật đó không chướng ngại nhau. Lại thấy các núi Thiết-vi sạch như lưu ly, không có tướng chướng ngại. Thấy núi sông, vách đá, cây cối, gai gốc của cõi Diêm-phù-đề, tất cả đều là chư hóa Phật mầu nhiệm. Tâm dần dần rộng lớn, thấy ba ngàn đại thiên thế giới trống không và tất cả đất đều là tượng Phật vi diệu. Lúc đó hành giả chỉ quán vô ngã, cẩn thận chớ khởi tâm đuổi theo tượng Phật . Lại nên tư duy: Ta nghe Phật nói chư Phật Như lai có hai loại thân, một là sanh thân, hai là pháp thân. Nay chỗ ta thấy đã chẳng phải pháp thân, lại chẳng phải sanh thân, là do giả tưởng thấy, từ hư vọng khởi. Chư Phật không đến, ta cũng không đi. Vì sao nơi đây bỗng sanh tượng Phật . Lúc nói lời này, chỉ nên tự quán thân mình vô ngã. Cẩn thận chớ đuổi theo các tượng hóa Phật . Lại nên quán kỹ nay thân này của ta lúc trước bất tịnh, chín lỗ mủ chảy, gân ràn rụa, máu dơ bẩn, sanh tạng thục tạng, đại tiểu tiện lợi, tám vạn hộ trùng, mỗi một trùng lại có tám mươi ức tiểu trùng làm quyến thuộc. Thân này như thế đâu có sạch chi. Tư duy như thế, tự thấy thân mình giống như túi da. Xuất định cũng thấy trong thân không có xương, da của thân như cái túi. Cũng quán thân người giống như túi da.

Lúc thấy việc này, nên đến người có trí tuệ hỏi về các pháp khổ. Nghe pháp khổ rồi, quán kỹ thân này thuộc các nhân duyên nên có khổ sinh. Ðã thọ sinh rồi thì ưu bi, khổ não, ân ái biệt ly và oán tắng hội. Như thế đủ thứ pháp khổ ở thế gian. Nay thân này của ta không bao lâu sẽ hư hoại, thuộc loại sanh tử ở trong lưới khổ. Các giặc như dao gió đi theo thân ta. Lửa dữ của địa ngục a-tỳ cháy mạnh sẽ thiêu đốt ta. Lạc đà, lừa, heo, chó, tất cả súc sanh và các cầm thú, ta đều trải qua, thọ các thân hình xấu xí ấy. Những khổ như thế gọi là ngoại khổ. Nay trong thân ta tự có bốn con rồng độc lớn, vô số rắn độc. Mỗi con rắn có chín mươi chín đầu. Các ác quỷ la-sát và các ác quỷ cưu-bàn-đồ... tụ tập ở tâm ta. Như thế thân tâm rất là bất tịnh, là chỗ hủ bại xấu ác tụ tập, chủng tử của ba cõi manh nha không dứt. Vì sao nay ta ở trong bất tịnh mà sanh tưởng thanh tịnh. Ðối với vật hư vọng mà tưởng là kim cang. Ðối với chỗ không có Phật mà tưởng Phật tượng. Tất cả tính tướng của các hành trong thế gian thảy đều vô thường, không lâu sẽ diệt. Thân này của ta như trong khoảng khảy móng tay cũng sẽ bại hoại. Dùng tưởng hư vọng này thấy tịnh giả ngụy trong bất tịnh.

Lúc tư duy như thế, tự thấy thân mình sạch như lưu ly, các tướng túi da tự nhiên biến mất. Quán thân và ngã trọn không thể được. Chỉ thấy bốn phương có các voi đen giẫm đạp lên đất phía trước. Tất cả đất kim cang phía trước bể nát. Thấy đất, cây, cành khô, cho đến những cành khô ở phương dưới rất nhiều không thể nói hết. Bấy giờ voi đen, như khi trước, dùng vòi quấn cây. Vô lượng rồng, dạ-xoa và voi đen đánh nhau. Voi lồng lên dày đạp các quỷ thần đó quỵ xuống đất bất tỉnh. Ở trong hư không có rất nhiều quỷ thần tay cầm bánh xe dao trợ giúp voi đen muốn nhổ cây này. Như thế một số rễ cây nhiều lúc bị động. Lúc cây này động, hành giả tự thấy đất dưới giường dây tự nhiên chấn động ngày ngày như thế.

Mãn chín mươi  ngày  như thế nên xin thức ăn tươi tốt và các thuốc bổ để bồi bổ thân thể. Ngồi ngay an ổn. Lại thực hành như trước và thấy như trước. Từ cảnh giới đầu tiên, quán kỹ từng cảnh giới qua lại cẩn thận, trải qua mười sáu lần, khiến cực sáng sạch. Ðã sáng sạch rồi, trở lại buộc niệm quán thân khổ, không, vô thường, vô ngã cũng đều không.

Lúc tư duy như thế, quán thân không thấy thân, quán ngã không thấy ngã, quán tâm không thấy tâm. Bấy giờ hốt nhiên thấy đại địa này, núi sông vách đá tất cả đều không.

Lúc xuất định như người say mê. Phải nên chí tâm tu phép sám hối, lễ bái tha thiết, buông xả quán này. Lúc lễ bái chưa ngước đầu lên, tự nhiên được thấy chân ảnh của Như lai, dùng tay xoa đầu, khen rằng: Pháp tử! Lành thay! Lành thay! Nay con khéo quán phép không của chư Phật. Nhờ thấy linh ảnh của Phật nên tâm rất vui mừng, lại được tỉnh ngộ. Bấy giờ  Tôn giả Ma-ha Tân-đầu-lư và 500 A-la-hán bay đến trước, vì hành giả tuyên nói rộng pháp không rất sâu. Nhờ thấy 500 tỳ-kheo Thinh văn, nên tâm rất vui mừng chí thành sám hối. Lại thấy Tôn giả Xá-lợi-phất, Ma-ha Mục-liên, La-dạ-na và 1.250 linh ảnh Thinh văn. Bấy giờ lại thấy linh ảnh Phật Thích-ca-mâu-ni. Thấy linh ảnh Phật Thích-ca-mâu-ni rồi lại được thấy linh ảnh sáu Ðức Phật quá khứ. Linh ảnh của chư Phật lúc đó như gương pha lê sáng rỡ đẹp đẽ. Mỗi vị duỗi cánh tay mặt xoa đầu hành gia. Chư Phật Như lai tự nói danh hiệu. Ðức Phật thứ nhất nói: Ta là Tỳ-bà-thi. Ðức Phật thứ hai nói: Ta là Thi-khí. Ðức Phật thứ ba nói: Ta là Tỳ-xá. Ðức Phật thứ tư nói: Ta là Câu-lưu-tôn. Ðức Phật thứ năm noi: Ta là Ca-na-hàm Mâu-ni. Ðức Phật thứ sáu nói: Ta là Ca-diếp-tỳ. Ðức Phật thứ bảy nói: Ta là Phật Thích-ca-mâu-ni, là Hòa thượng của con. Con quán pháp không ,Ta đến chứng minh cho con. Sáu Ðức Phật Thế tôn hiện tiền thấy biết chứng giám cho con. Lúc Ðức Phật nói lời này, thấy sắc thân của Phật hết sức rõ ràng, cũng thấy sáu vị Phật hết sức phân minh.

Bấy giờ bảy Ðức Phật, mỗi vị phóng quang tướng lông trắng đại nhân giữa chân mày. Hào quang rất nhiều chiếu khắp thế giới Sa-bà và thân lưu ly đều sáng rỡ. Lúc chư Phật hiện tướng này, những lỗ chân lông phóng đại quang minh, hóa Phật vô số, đầy khắp ba ngàn đại thiên thế giới, trên đất và hư không thuần một màu hoàng kim. Trong số chư Thế tôn đó có vị phi hành, có vị làm mười tám loại thần biến, có vị kinh hành, có vị vào sâu thiền định, có vị mặc nhiên an trụ, có vị phóng đại quang minh. Chỉ Ðại Hòa thượng Thích-ca-mâu-ni nói bốn chân đế cho hành giả, phân biệt nghĩa không của các pháp khổ, không, vô thường, vô ngã. Sáu Ðức Phật quá khứ lại cũng phân biệt 12 nhân duyên, hoặc lại diễn thuyết 37 đạo phẩm, tán thán Thánh hạnh. Bấy giờ hành giả thấy Phật nghe pháp tâm sinh hoan hỷ.

Ðây là lúc nên tự tư duy chư Phật Thế tôn có hai loại thân, nay ta được thấy, thấy sắc thân của Phật mà không thấy năm phần pháp thân là tri kiến giải thoát của Như lai. Lúc tư duy như thế, lại ân cần sám hối ngày đêm sáu thời không trễ nải, luôn tu thiền định. Nên ghi nhớ rằng: Sắc thân này như huyễn như mộng, như ánh lửa, như vòng lửa quay, như thành càn-thát-bà, như tiếng gọi dội lại. Do đó Ðức Phật đã nói tất cả pháp hữu vi như mộng huyễn bọt bóng, như sương cũng như điện.

Những pháp như thế, nay ta nhứt nhứt phải nên quán kỹ khiến cực rõ ràng. Lúc quán như thế hóa Phật không hiện. Nếu còn một ít lại phải quán không. Vì quán không nên hóa Phật liền biến mất, chỉ còn bảy Ðức Phật. Bấy giờ bảy vị Phật và chư đại chúng Thinh văn quyến thuộc rộng vì hành giả nói 37 pháp trợ Thánh đạo. Nghe pháp này rồi thân tâm hoan hỷ. Lại quán kỹ các pháp: khổ, không, vô thường, vô ngã. Lúc quán này voi lồng lên hét lớn kéo cây rung động. Lúc cây mới động, thấy đất một phòng chấn động sáu cách. Lại có dạ-xoa đâm voi đen chết. Nhiều voi đen chết nằm trên đất, không bao lâu hư nát chảy nước, mủ trắng, mủ đen, mủ xanh, mủ vàng, mủ lục, mủ tía, mủ đỏ, máu đỏ dầm dề trên đất. Lại có con bọ hung và các trùng tụ tập dạo chơi ở trên. Lại có các trùng trong mắt phát ra lửa đốt bọ hung chết. Bấy giờ ở bờ đất kim cang phương dưới có năm bánh xe kim cang, có năm người kim cang ở trong bánh xe ấy, tay mặt cầm kiếm kim cang, tay trái cầm chày kim cang. Dùng chày đập đất, dùng kiếm chặt cây. Lúc thấy việc này, đại địa dần dần chấn động. Thấy đất trong thành chấn động sáu cách. Thấy một thành rồi lại thấy hai thành. Dần dần rộng lớn thấy một do tuần. Thấy một do tuần rồi, lại rộng lớn thấy khắp ba ngàn đại thiên thế giới, tất cả đất động. Lúc động, phương đông nổi lên phương tây chìm xuống, phương tây nổi lên phương đông chìm xuống, phương nam nổi lên phương bắc chìm xuống, phương bắc nổi lên phương nam chìm xuống, giữa nổi lên bìa chìm xuống, bìa nổi lên giữa chìm xuống. Lúc đất này động, thấy gốc cây lớn cho đến bờ kim cang. Khi người kim cang dùng dao chặt, làm cho gốc cây đứt. Lúc gốc cây đứt, những rồng rắn đều phun lửa, tìm cây mà lên. Bấy giờ có nhiều la-sát tụ tập lại trên cây củi. Lúc người kim cang dùng chày kim cang đập cành cây cho cây này gẫy, từ một chày cho đến 84.000 chày cành cây mới gẫy. Bấy giờ chày bắt đầu tự nhiên phát ra lửa đốt hết cây này. Chỉ còn lỏi cây như dùi kim cang. Từ trên đỉnh tam giới xuống đến bờ kim cang không nghiêng động.

Khi hành giả đắc quán này, lúc xuất định an lạc. Khi xuất định nhập định tâm luôn luôn vắng lặng, không có tướng vui hay lo. Lại  siêng năng tinh tấn ngày đêm không ngừng. Nhờ tinh tấn nên Ðức Thế tôn Thích-ca-mâu-ni và sáu vị Phật quá khứ sẽ hiện ra ở trước nói về không tam-muội, vô nguyện tam-muội, vô tác tam-muội rất sâu. Nghe rồi hoan hỷ thuận theo lời Phật dạy, quán kỹ pháp không như nước lớn chảy. Chẳng bao lâu sẽ được đạo A-la-hán.

Ðức Phật bảo A-nan: Pháp quán tưởng bất tịnh này là đại cam lồ, diệt tham dâm dục, trừ được tâm bịnh kiết sử của chúng sanh ông khéo thọ trì, cẩn thận chớ để quên mất. Sau khi Phật diệt độ, nếu tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà tắc, ưu-bà-di nghe Thánh pháp cam lồ quán đảnh này, nhiếp được các căn, chí tâm buộc niệm, quán kỹ thân phần, tâm không phân tán, buộc tâm an trụ trong khoảng chốc lát, thì người này mệnh chung sẽ được sanh lên cõi trời. Nếu lại có người thuận theo lời Phật dạy, buộc niệm quán kỹ một móng một ngón, khiến tâm an trụ, nên biết người này cuối cùng không đọa lạc vào ba đường ác. Nếu lại có người buộc niệm quán kỹ thấy xương trắng toàn thân thì người này mệnh chung sẽ sanh về cõi trời Ðâu-suất, được gặp Bồ-tát nhứt sanh bổ xứ hiệu là Di-lặc. Thấy cõi trời đó rồi thì được thọ lạc. Lúc Di-lặc thành Phật, đầu tiên nghe pháp, được quả A-la-hán và ba minh sáu thông, đủ tám giải thoát. Nếu lại có người quán pháp bất tịnh này được đầy đủ, thấy chân ảnh của Phật trên thân này, nghe Phật thuyết pháp thì được hết các khổ.

Bấy giờ A-nan liền từ chỗ ngồi đứng dạy, sửa lại y phục, làm lễ Phật , chấp tay quỳ thẳng bạch Ðức Phật rằng: Thưa Ðức Thế tôn, pháp yếu này thọ trì như thế nào và pháp này nên gọi là gì?

Ðức Phật bảo A-nan: Pháp này gọi là quán thân bất tịnh tạp uế tưởng, cũng gọi là pháp phá ngã quán vô ngại không. Ông khéo thọ trì, vì chúng sanh trược khổ đời vị lai, nhiều người tham dâm, nên phân biệt rộng.

Lúc Ðức Phật nói lời này, các vị Ðế thích Phạm vương hộ đời, vô số thiên tử cầm hoa trời mạn-đà-la, hoa ma-ha mạn- đà-la, hoa mạn-thù-sa, hoa ma-ha mạn-thù-sa rãi trên Ðức Phật. Và chư đại chúng đảnh lễ chân Phật, tán thán Ðức Phật rằng: Ðức Như lai xuất thế rất là hiếm có, đã hàng phục được Ca-hy-la Nan-đà kiêu mạn tà kiến, cũng vì chúng sanh tham dâm đời vị lai mà nói pháp dược cam lồ, làm cho Tam bảo cửu trụ, chư thiên tăng trưởng. Lành thay! Ðức Thế tôn khéo thuyết pháp này. Rồng, thần, dạ-xoa, càn-thát-bà... cũng cùng chư thiên tán thán Ðức Phật . A-nan, Ca-hy-la Nan-đà, 1.000 tỳ-kheo, vô lượng chư thiên, tám bộ chúng nghe Ðức Phật nói vui vẻ phụng hành, lễ Phật rồi lui ra.

 Ðắc quán này gọi là mười sắc bất tịnh, cũng gọi là phân biệt cảnh giới các trùng, là môn bất tịnh tối sơ, có mười tám phương tiện, tính chất của các cảnh giới không thể nói hết. Lúc nhập chánh định sẽ tự nhiên được. Ðến đây kết thúc pháp quán thứ 18.

---o0o---

 

 

 

 

 

Quyển 3

 

Ðời Diêu Tần Tam tạng Pháp Cưu-ma-la-thập... dịch.

 

XIX. Tôi nghe như vầy: Có một thời Ðức Phật trụ tại rừng cây Kỳ-đà vườn Cấp Cô Ðộc thuộc nước Xá-vệ. Bấy giờ có Ðức Thế tôn và đủ 1.250 vị tỳ-kheo. Trong pháp hội lúc đó có một tỳ-kheo tên là Thiền Nan-đề, từ lâu đã thông đạt thiền định sâu, thành A-la-hán, có đủ ba minh sáu thông và tám giải thoát. Ngài từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa y phục ngay ngắn, chấp tay quỳ thẳng và bạch Phật rằng: Ngày nay Như lai hiện hữu ở thế gian làm lợi lạc an ổn cho tất cả. Sau khi Ðức Phật diệt độ, Ngài không còn hiện hữu, trong bốn bộ chúng, người có nghiệp chướng, nếu lúc buộc niệm mà cảnh giới thanh tịnh không hiện ở trước, đồng thời phiền não và tất cả tội phạm từ đột-kiết-la cho đến tội nặng vẫn hiện hữu, như thế muốn sám hối thì nên làm gì để diệt các tội tướng này? Nếu lại có người sát sanh tà kiến mà muốn tu chánh niệm thì nên diệt tà kiến, ác sát sanh, chướng phiền não bằng cách nào? Nói lời ấy rồi, như núi lớn lở, năm vóc gieo xuống đất, đảnh lễ chân Phật, lại bạch Phật rằng: Cúi xin Ðức Thế tôn vì chúng con giải nói, khiến cho tất cả chúng sanh đời sau hằng được chánh niệm, không lìa Hiền Thánh.

Bấy giờ Ðức Thế tôn giống như đấng cha lành an ủi con, bảo rằng: Lành thay! Này thiện nam tử! Con thực hành tâm từ và lòng từ đều sanh. Nay con đều thành tựu đại bi, vô lậu, ngũ căn, ngũ lực, thất giác chi và bát Thánh đạo. Ngày nay con vì tất cả chúng sanh đời sau hỏi pháp trừ tội. Hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ ghi nhớ.

Bấy giờ Ðức Thế tôn liền phóng quang trên đỉnh đầu. Hào quang này màu vàng có 500 hóa Phật nhiễu Phật bảy vòng, chiếu sáng rừng Kỳ-đà cũng màu vàng. Hiện tướng này rồi hào quang lại vào xương đầu của Phật .

Bấy giờ Ðức Thế tôn bảo Thiền Nan-đề và dạy A-nan rằng: Các ông nên dạy chúng sanh đời sau, những người có nhiều nghiệp tội, vì trừ tội nên bảo họ niệm Phật. Nhờ niệm Phật nên trừ được các nghiệp chướng, báo chướng và phiền não chướng. Niệm Phật thì trước nên ngồi ngay, chấp tay, nhắm mắt, đưa lưỡi lên nứu răng. Nhứt tâm buộc niệm, tâm tâm chuyên chú nối nhau, khiến không phân tán. Tâm đã định rồi, trước nên quán tượng. Quán tượng thì nên khởi tưởng niệm quán đất phía trước, khiến cực sáng sạch. Chọn lấy độ dài hai trượng ngay ngắn như bức vách, khiến tăng thêm sáng sạch, giống như gương sáng. Thấy đất phía trước rồi, thấy đất bên trái, cũng làm cho sáng sạch. Thấy đất bên phải, cũng làm cho sáng sạch. Và thấy đất phía sau cũng làm cho sáng sạch. Khiến đất bốn phương đều bằng phẳng như bàn tay. Ở mỗi phương tưởng hai trượng đất, khiến cực sáng sạch. Ðất đã sáng rồi, lại nên nhiếp tâm quán đất phía trước, tưởng hoa sen. Hoa có ngàn cánh và được trang nghiêm bằng bảy báu. Lại nên tưởng kim tượng một trượng sáu. Kim tượng này ngồi kiết già trên hoa sen. Thấy tượng này rồi, phải nên quán nhục kế trên đỉnh. Thấy tóc nhục kế trên đỉnh màu xanh sậm đỏ.Tóc buông ra dài một trượng ba. Lại lúc buông ra xoay về bên phải mềm mại. Có ánh sáng lưu ly trụ trên đỉnh Phật . Như thế mỗi lỗ chân tóc có một sợi mọc xoay về(bên phải). Quán 84.000 sợi đều khiến rõ ràng. Thấy việc này rồi, kế quán mặt tượng. Mặt tượng tròn đầy như trăng Rằm. Oai quang rực rỡ phân biệt rõ ràng. Lại quán trán rộng bằng thẳng. Tướng lông giữa chân mày trắng như ngọc tuyết, như châu pha lê, xoay về bên phải mềm mại. Lại quán mũi tượng như thoi vàng đúc, giống như mỏ của con ó chúa ở trước mặt. Lại quán miệng tượng. Môi màu đỏ đẹp như trái tần-bà-la. Kế quán bốn mươi cái răng tượng, vuông trắng đều bằng. Trên răng có dấu ấn, trong dấu ấn phát ra ánh sáng như chân châu trắng. Giữa răng màu hồng, chiếu ra ánh sáng hồng. Kế quán cổ tượng, như ống lưu ly phát ra ánh sáng màu vàng. Kế quán ngực tượng, các chữ đức chữ vạn trong tướng ấn khiến rất phân minh. Mỗi dấu ấn đều phát ra ánh sáng năm màu đầy đủ. Kế quán cánh tay tượng Phật như vòi voi chúa, mềm mại khả ái. Kế quán bàn chân tượng, mười ngón so le, nắm tay trong ngoài sít sao đều đặn. Trên tay mọc lông như ánh sáng lưu ly. Lông đều uốn lên như móng đồng đỏ. Trên móng sắc vàng, trong móng sắc hồng, như núi đồng đỏ và vàng tía hợp lại. Kế quán kẻ ngón tay, giống như ngỗng chúa, lúc xòe ra thì thấy như lưới chân châu, thu lại thì không thấy. Quán tay tượng rồi kế quán thân tượng. Cách ngồi an ổn  như núi vàng ròng, không nghiêng trước ngã sau mà ngồi ngay ngắn. Lại quán chân tượng, như bắp chân của nai chúa thẳng, tròn, đầy đặn. Kế quán bàn chân bằng, đầy đặn, vững chải. Chỉ dưới bàn chân có hình hoa sen, đầy đủ 1.000 nan hoa sen. Trên bàn chân mọc lông như lưu ly xanh sậm, lông đều uốn lên. Ngón chân đều đặn ngay ngắn, so le vừa phải. Móng màu hồng đỏ. Ngay ở ngón chân cũng có chỉ hình bánh xe đủ 1.000 nan hoa. Màng da mỏng giữa những ngón chân giống như mạng lưới, tương tự như chân nhạn chúa. Quán những việc như thế và quán ánh sáng của thân, ánh sáng tròn, ánh sáng của ót. Aùnh sáng có hóa Phật , các chúng đại tỳ-kheo và hóa Bồ-tát. Hóa thân như thế như vòng lửa xoay thì ánh sáng xoay theo.

Như thế quán nghịch là quán ngược từ chân lên đến búi tóc trên đỉnh. Quán thuận là từ đỉnh xuống chân. Quán tượng như thế khiến tâm phân minh, chỉ thấy một Phật tượng. Thấy một Phật tuợng rồi lại nên quán thấy hai tượng. Lúc thấy hai Phật tượng, khiến thân Phật tượng thành lưu ly, phát ra ánh sáng nhiều màu sắc, ánh sáng nối tiếp nhau như đốt núi vàng, hóa tượng vô số. Thấy hai tượng rồi lại thấy ba tượng. Thấy ba tượng rồi lại thấy bốn tượng. Thấy bốn tượng rồi lại thấy năm tượng. Thấy năm tượng rồi cho đến thấy mười tượng. Thấy mười tượng rồi tâm chuyển sáng sắc, thấy Diêm-phù-đề, cả trong bốn biển. Phàm phu tâm hẹp hòi không làm cho rộng được. Nếu rộng lớn thì nhiếp tâm khiến trở về. Cả trong bốn biển, lấy núi Thiết Vi làm giới hạn. Thấy tượng Phật đầy trong biển này, với 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp đều rất phân minh. Mỗi một tướng tốt có vô số hào quang. Như trong nhiều hào quang thấy từng cảnh giới tạp uế bất tịnh là do từ tội báo.

Lại nên quét dọn đất bùn ở tháp, tạo tác trù tính làm việc trong sạch, nhún nhường, khiêm hạ, tu các pháp sám hối. Lại nên an tâm chánh niệm một nơi như quán tượng trước, không duyên theo việc khác. Quán kỹ giữa chân mày tượng. Quán giữa chân mày tượng rồi, kế theo thứ tự quán các tướng còn lại, mỗi một tướng tốt đều làm cho rõ ràng. Nếu không rõ ràng, thì lại sám hối và làm các việc khổ nhọc. Nhiên hậu nhiếp tâm quán tưởng như trước, thấy sắc thân các tượng Phật đoan nghiêm, 32 tướng tốt đều đầy đủ, khắp trong bốn biển, đều ngồi trên hoa. Thấy tượng ngồi lại nhớ đến Ðức Thế tôn còn ở đời ôm bát cầm gậy vào làng khất thực, du hóa khắp nơi, đem phước đức cứu độ chúng sanh. Ngày nay ta chỉ thấy tượng ngồi, không thấy tượng đi, xưa có tội gì.

Nhớ nghĩ như thế rồi lại sám hối. Ðã sám hối rồi thì nhiếp tâm buộc niệm quán tượng như trước. Lúc quán tượng, thấy các tượng ngồi tất cả đều đứng dậy, thân lớn một trượng sáu, ngay thẳng không nghiêng, thân tướng quang minh đều đầy đủ. Thấy tượng đứng rồi lại thấy tượng đi, ôm bát cầm gậy oai nghi đỉnh đạc, chư thiên và chúng nhân đều vây quanh. Lại có các tượng bay lên hư không phóng hào quang sắc vàng, đầy trong hư không, giống như mây vàng. Lại giống núi vàng, tướng tốt không gì so sánh. Lại thấy nhiều tượng ở trong hư không làm mười tám thứ thần biến. Trên thân chảy nước, dưới thân xuất lửa. Hoặc thấy thân lớn đầy trong hư không. Lớn lại hiện nhỏ như hạt cải. Ði trên đất như trên nước, đi trên nước như trên đất. Ở trong hư không, đông nổi lên tây chìm xuống, tây nổi lên đông chìm xuống, nam nổi lên bắc chìm xuống, bắc nổi lên nam chìm xuống, giữa nổi lên bìa chìm xuống, bìa nổi lên giữa chìm xuống. Ði đứng nằm ngồi tùy ý tự tại.

Thấy việc này rồi lại nên nhớ nghĩ về Ðức Thế tôn lúc còn ở đời dạy các vị tỳ-kheo nằm nghiêng hông phải. Nay ta cũng nên quán các tượng nằm. Liền thấy các tượng nằm, mặc tăng-già-lê, gối đầu lên khủy tay mặt, nằm nghiêng hông phải. Dưới hông tự nhiên sinh giường sắc vàng, bằng gỗ chiên đàn sáng chói, đủ loại màu sắc, nhiều hoa sen đẹp dùng làm đồ trải. Trên có trướng báu rủ xuống và các chuổi anh lạc. Phật phóng hào quang lớn đầy trong trướng báu giống như hoa vàng, lại tương tự như trăng sao. Vô lượng ánh sáng báu giống như mây tụ tập ở trên không rực rỡ. Trong có hóa Phật đầy hư không.

Thấy tượng nằm rồi, lại nên nhớ về quá khứ có Ðức Phật tên Thích-ca-mâu-ni, chỉ một mình giáo hóa chúng sanh. Trụ ở đời này 49 năm, nhập đại niết-bàn mà bát niết-bàn, giống như củi hết lửa tắt, vĩnh viễn tịch diệt không còn. Nay ta tâm tưởng, nhờ tâm tưởng nên thấy nhiều tượng này. Nhiều tượng này không từ đâu đến, không đi đến đâu. Từ tâm vọng tưởng của ta mà thấy những tượng này vậy. Lúc nhớ nghĩ như thế, dần dần các tượng biến mất hết, chỉ còn thấy một tượng ngồi kiết già trên đài hoa. Quán kỹ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp của tượng này đều khiến sáng tỏ. Thấy tượng này rồi gọi là pháp quán tượng.

Ðức Phật bảo Thiền Nan-đề và dạy A-nan: Sau khi Phật diệt độ, nếu tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di muốn sám hối, thì tuy Phật không còn, nhưng buộc niệm quán kỹ hình tượng, thì các nghiệp tội ác mau được thanh tịnh.

Quán tượng này rồi, lại nên quán từ trong rún tượng, bèn phóng ra một hào quang. Hào quang này màu vàng, phân làm năm chi. Một hào quang chiếu bên trái, một hào quang chiếu bên phải, một hào quang chiếu phía trước, một hào quang chiếu phía sau, một hào quang chiếu lên trên. Năm hào quang như thế, trên mỗi một hào quang đều có hóa Phật . Tướng Phật thứ tự đầy trong hư không. Lúc thấy tướng này khiến cực sáng tỏ. Lại thấy hóa Phật trên đến cõi Phạm thế đầy khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Thấy hào quang màu vàng trong ba ngàn đại thiên thế giới như núi vàng tía, trong ngoài không ngại.

Lúc thấy việc này tâm ý vui vẻ. Thấy tượng ngồi phía trước như chân ảnh của Phật . Thấy ảnh Phật rồi, lại nên nhớ nghĩ đây là ảnh thế thôi. Ðức Thế tôn có oai lực, trí tuệ tự tại hiện ra việc này. Nay ta nên quán kỹ Phật chân thật. Bấy giờ liền thấy thân Phật vi diệu sạch như lưu ly trong có kim cang. Trong kim cang có ánh sáng vàng tía, cùng phản chiếu nhau thành các tướng tốt: 32 tướng và 80 vẻ đẹp, giống như vân ấn sáng rực vi diệu, thanh tịnh không thể nói hết. Tay cầm bình rửa đứng trong hư không. Trong bình đầy nước giống như cam lồ. Nước đó có năm màu năm ánh sáng trong sạch như ngọc lưu ly mềm mại mượt mà, rưới lên đầu hành giả và khắp trong thân. Mắt thấy nước trong thân, khi chạm vào tám mươi hộ trùng thì dần dần teo rụng. Trùng đã khô chết rồi thì thân thể mềm mại tâm ý vui thích. Nên tự nghĩ rằng Như lai là đấng cha lành dùng nước pháp thượng vị cam lồ này mà rưới trên đỉnh đầu mình. Pháp quán đảnh này chắc chắn không hư dối.

Bấy giờ lại nên khởi tưởng niệm cúi xin Ðức Thế tôn vì con thuyết pháp. Phật thuyết pháp là thuyết tứ niệm xứ, tứ chánh cần, tứ như ý túc, ngũ căn, ngũ lực, bảy giác chi, tám thánh đạo. 37 pháp này nhứt nhứt phân biệt, thuyết cho hành giả.

Thuyết pháp này rồi, lại dạy quán khổ, không, vô thường, vô ngã. Dạy pháp này rồi, nhờ thấy Phật nên được nghe diệu pháp, tâm ý khai mở như nước thuận dòng. Không bao lâu cũng thành đạo A-la-hán.

Người nghiệp chướng nặng, thấy miệng Phật động mà không nghe thuyết pháp. Giống như người điếc không nghe biết được. Bấy giờ lại nên hành pháp sám hối. Ðã sám hối rồi, năm vóc gieo xuống đất, đối trước Phật khóc ra tiếng. Trải qua nhiều thời gian tu các công đức, rồi sau mới được nghe Phật thuyết pháp. Tuy nghe pháp mà nghĩa không hiểu rõ. Lại thấy Ðức Thế tôn dùng nước bình rửa rưới lên đỉnh đầu hành giả. Màu nước biến đổi lạ lùng, sắc thuần kim cang từ trên đỉnh vào. Mỗi màu một khác: Xanh, vàng, đỏ, trắng. Các tướng uế tạp cũng hiện ở trong. Nước từ trên đỉnh xuống thẳng trong thân, từ gót chân chảy ra, vào trong đất. Tức thời đất biến thành ánh sáng lớn bằng một trượng, nhập vào trong đất. Như thế dần dần sâu thẳng tới mé nước. Ðến mé nước rồi lại nên tác ý theo ánh sáng này đi.

Lại quán nước này, dưới nước rỗng không rộng lớn. Lại nên quán dưới không có đất lưu ly màu xanh đậm. Dưới đất lưu ly có đất màu vàng. Dưới đất màu vàng có đất kim cang. Dưới đất kim cang lại thấy hư không. Thấy hư không này hoát nhiên hư không rộng lớn, đều không sở hữu.

Thấy việc này rồi nhiếp tâm trở lại, quán một Phật tượng như trước. Bấy giờ hào quang Phật đó tăng lên rực rỡ, không thể nói hết. Lại cầm bình rửa, rưới nước lên đỉnh đầu hành giả. Nước sáng rỡ cũng như đã nói trên. Bảy lần như thế.

Ðức Phật bảo Thiền Nan-đề rằng: Ðây gọi là quán tượng tam-muội. Cũng gọi là định niệm Phật . Lại gọi là trừ tội nghiệp. Còn gọi là cứu phá giới, làm cho người hủy phạm cấm giới không mất thiền định.

Ðức Phật bảo A-nan: Ô ng khéo thọ trì pháp quán đảnh quán Phật tam-muội này, vì tất cả chúng sanh đời vị lai, nên phân biệt rộng.

Lúc Ðức Phật nói lời này, Tôn giả Thiền Nan-đề, chư thiên chúng và 1.250 vị tỳ-kheo đều thưa rằng: Như lai Thế tôn ngày nay vì các chúng sanh, những người nhiều loạn tâm, mà nói pháp trừ tội. Cúi xin Ðức Thế tôn khai mở pháp cam lồ để cho các chúng sanh, sau Phật diệt độ được đạo niết-bàn. Tỳ-kheo Thiền Nan-đề nghe đức Phật nói phép quán Phật tam-muội này thân tâm hoan hỷ. Ðúng lúc liền được môn tam-muội. Hoát nhiên ý khai mở, thành A-la-hán, tam minh, lục thông đều đầy đủ.

Ðức Phật bảo A-nan: Tưởng này thành thì gọi là quán Phật tam-muội thứ 19. Cũng gọi là pháp quán đảnh. Ông khéo thọ trì, cẩn thận chớ để quên mất. Vì tất cả chúng sanh đời vị lai phân biệt nói rộng.

Lúc Ðức Phật nói lời này, chúng tỳ-kheo nghe Ðức Phật nói vui vẻ phụng hành.

 

XX. Ðức Phật bảo A nan: Người tham dâm nhiều tuy quán Phật tam-muội như thế mà đối với việc ấy không trừ được, không thể thu được đạo quả Hiền Thánh, thì phải dạy lại tự quán thân mình như pháp trước, lại quán người xương, làm cho thật sáng sạch giống như núi tuyết. Lại phải buộc niệm trụ ý trong rún, hoặc trong eo lưng, theo dõi hơi thở ra vào. Hơi thở ra và vào đếm một, đếm đến mười; rồi trở lại một, tiếp tục theo dõi hơi thở qua lại đến mười. Sau đó lại bỏ đếm mà chỉ. Bấy giờ tâm ý điềm tĩnh vô vi. Tự thấy da của thân giống như túi lụa trắng. Thấy việc này rồi, không thấy xương thân, không biết thân ở đâu. Bấy giờ lại nên dạy khởi tưởng trở lại, khiến nội thân, tâm ý, các chi phần và xương cốt của thân thể như người bạch ngọc. Ðã thấy việc này rồi lại nên buộc niệm trên đốt xương lớn của xương sống trong eo lưng, khiến tâm không phân tán. Lúc đó lại tự nhiên sẽ thấy trên thân có một đóm sáng lớn như đồng tiền. Dần dần rộng lớn như con cá ma-già. Khắp xung quanh mây tụ tập lại giống như mây trắng. Trong mây trắng có mặt trời sáng như gương pha lê. Aùnh sáng dần dần nhiều, toàn thể sáng tỏ. Lại có ánh sáng trắng tròn giống hệt như bánh xe. Trong ngoài đều sáng, sáng hơn mặt trời. Lúc thấy việc này lại đếm từ một đến mười như trước. Hoặc một lần hay nhiều lần tùy ý. Như thế buộc niệm ở chỗ kín(?), khiến tâm không phân tán. Lại nên buộc niệm như trước, quán đốt xương lớn trong eo lưng. Lúc quán đốt xương lớn thì định tâm bất động. Lại tự thấy ánh sáng như khoảng đồng tiền lớn trên thân sáng nhiều hơn trước vài lần. Tinh tấn gấp đôi lại thấy ánh sáng của thân tăng trưởng gấp bội như miệng cái vò rửa. Vật sáng ở đời không có để lấy làm ví dụ. Thấy ánh sáng này rồi, siêng năng tinh tấn gấp đôi, tâm không lười mỏi lui sụt. Lại thấy ánh sáng này như khoảng cái gương sáng ở trước ngực. Lúc thấy ánh sáng này nên siêng năng tinh tấn như cứu lửa cháy đầu, siêng năng không dừng lại thì thấy ánh sáng này tăng nhiều. Vật báu đặc biệt của chư thiên cũng không có để ví dụ. Aùnh sáng này thanh tịnh không có tỳ vết. Có bảy loại ánh sáng có màu sắc và bảy sắc báu có ánh sáng từ ngực ra vào ở giữa vùng sáng. Lúc hiện tượng này xuất hiện thì rất vui mừng, tự nhiên thích thú, tâm rất an ổn, không có vật gì ví dụ được. Lại tinh tấn, tâm không  lười mỏi dừng nghỉ thì thấy ánh sáng như mây nhiễu quanh thân bảy vòng. Mỗi một ánh sáng hóa thành bánh xe ánh sáng. Trong bánh xe ánh sáng tự nhiên sẽ thấy tướng mạo căn bản của 12 nhân duyên. Nếu không tinh tấn mà giải đãi lười biếng, phạm giới nhẹ cho đến tội đột-kiết-la, thì thấy ánh sáng liền tối giống như tường vách, hoặc thấy ánh sáng này giống như áo thầy tu cũ rách. Do ý phóng dật coi thường tội nhỏ nên che chướng ánh sáng vô lậu của Hiền Thánh.

Ðức Phật bảo A-nan: Pháp môn quán đảnh bất tịnh quán này là hạt giống của chư Hiền Thánh, dạy chư tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, nếu muốn tu các pháp của Hiền Thánh thì nên quán kỹ các pháp: khổ, không, vô thường, vô ngã, nhân duyên. Như học sổ tức khiến tâm không loạn. Nên siêng trì giới, nhứt tâm nhiếp trì tội nhỏ. Nên sinh lòng ân cần, coi trọng tàm quý, sám hối, cho đến tội nhỏ, cẩn thận chớ che giấu. Nếu che giấu tội thì thấy các ánh sáng như cây mục. Lúc thấy việc này tức biết phạm giới. Lại xấu hổ, sám hối, tự trách, quét dọn đất dơ ở tháp và làm các việc khổ nhọc. Lại nên cúng dường cung kính sư trưởng cha mẹ. Ðối với thầy và cha mẹ xem như Ðức Phật  rất mực cung kính. Lại theo thầy và cha mẹ xin thệ nguyện rộng, mà nói rằng: Nay con cúng dường thầy và cha mẹ, nhờ công đức này nguyện con đời đời hằng được giải thoát. Xấu hổ và tu công đức như thế rồi, đếm hơi thở như trước, lại thấy ánh sáng này sáng tỏ khả ái như trước không khác. Lại nên buộc niệm quán đốt xương lớn trong eo lưng, tâm niệm an định, ý không phân tán. Giả sử có loạn tâm, lại nên tự trách xấu hổ sám hối. Ðã sám hối rồi, lại thấy rún sáng bảy sắc đầy đủ giống như bảy báu. Nên làm cho ánh sáng này hợp thành một ánh áng trắng đẹp khả ái. Thấy việc này rồi, lại dạy buộc niệm tư duy, quán người xương trắng như ngọc tuyết như trước. Ðã thấy người xương trắng rồi, lại nên dạy buộc niệm trụ ý ở đỉnh đầu người xương. Thấy đỉnh đầu người xương tự nhiên phóng quang. Aùnh sáng này rất nhiều, sắc giống như lửa, khi dài, khi ngắn, lúc thô , lúc tế, lúc thẳng như cây giáo cán dài..., từ trên đỉnh đầu lộn ngược xuống vào trong xương đỉnh đầu. Từ xương đỉnh đâu ra vào trong xương cổ. Từ xương cổ ra vào trong xương ngực. Từ xương ngực xuất ra lại vào trong rún. Từ trong rún xuất ra lại vào trong đốt xương lớn của xương sống. Vào trong đốt xương lớn rồi, ánh sáng liền mất. Aùnh sáng mất rồi, đúng lúc có một vầng mây sáng lớn tự nhiên, với nhiều báu trang nghiêm, hoa báu thanh tịnh, màu sắc hạng trung và thượng. Trong ấy có một vị Phật tên Thích-ca-mâu-ni , tướng sáng rỡ, đầy đủ 32 tướng và 80 vẻ đẹp. Mỗi một tướng tốt phóng ra ngàn ánh sáng. Aùnh sáng này rất nhiều như hằng ức ngàn vạn mặt trời chói lọi hừng hực. Ðức Phật đó cũng thuyết pháp bốn chân đế. Tướng rực rỡ đứng trước hành giả, lấy tay xoa đầu. Hóa Phật lại dạy rằng: Ông đời trước tham dục, sân nhuế, ngu si, do duyên đuổi theo việc ác, bị vô minh che lấp, khiến ông đời đời thọ sanh trong sanh tử. Nay ông nên quán kỹ  các sự khốn khổ trong thân và các lửa ngoài thân tất cả đều biến diệt.

Nói lời này rồi lại dạy pháp quán bất tịnh như trước. Quán các trùng trong thân tất cả khô héo rơi rớt. Thấy việc này rồi lại nên khởi tưởng lửa đốt chết các trùng. Trùng đã không chết, lại tự thấy thân như pha lê trắng, tự nhiên trắng đẹp. Thấy xương trắng rồi từ đầu phát ra ánh sáng. Aùnh sáng này lúc lớn, lúc nhỏ, khi thô, khi tế như cây giáo làm cho dài ra năm trượng(?). Lại nên tưởng niệm khiến đầu hướng trở lại. Lại nên tác ý khiến đầu hướng trở lại và làm cho thân đều lộn ngược, để đầu chống vào xương sống ở khớp xương lớn đối với rún.

Thấy việc này rồi, lại nên quán kỹ khiến người xương trắng và ánh sáng đồng sắc. Thấy đồng sắc rồi, thấy ngay ánh sáng này có trái cây đủ loại màu sắc. Thấy trái cây này rồi, lại thấy nhiều ánh sáng. Từ đầu trái cây này xuất ra có ánh sáng sắc trắng. Aùnh sáng này rất nhiều như mây báu trắng. Những người xương này sắc trắng đẹp không khác với ánh sáng.

Lại thấy những xương bể gẫy rơi rớt. Hoặc đầu rơi xuống đất, hoặc các khúc xương phân tán, hoặc có xương trắng toàn thân giống như gió mạnh thổi mưa tuyết tụ tán bất định, ví như diện chớp theo đó khi hiện khi mất. Những  người xương này rơi xuống đất thành nhóm giống như gò đất, tương tự cây vụn mục, tụ tập một nơi. Hành giả tự quán thấy trên gò xương tự nhiên có hơi bốc lên đến hư không giống như mây khói. Mây ấy trắng đẹp đầy khắp hư không, uyển chuyển xoay về bên phải, mây trở lại tụ tập cùng một nơi.

Lúc thấy việc này, lại nên tưởng một người xương. Thấy thân người xương này có chín bức tranh chín màu rõ ràng. Trong mỗi bức có người xương chín màu, màu này sáng đẹp không thể nói hết. Mỗi một người xương đều làm cho thân thể phản chiếu rõ ràng đầy đủ trong người xương phía truớc, khiến không chướng ngại.

Quán như thế rồi lại nên tự quán trong từng màu giống như lưu ly, không có các che chướng. Chín mươi chín màu trong màu đó, mỗi màu lại có rất nhiều người xương  chín màu. Những người xương này lại có các loại tướng, tính của chúng bất đồng, nhưng không chướng ngại nhau.Thấy việc này rồi nên siêng năng tinh tấn diệt tất cả điều ác. Thấy việc này rồi thì mây rất sáng tụ ở trước giống như cái ly từ rún mà vào thân. Ðã vào rún rồi lại vào trong xương sống. Vào xương sống rồi tự thấy thân mình so với trước đây không khác, bình phục như cũ. Xuất định nhập định nhờ đếm hơi thở nên thường thấy việc nói trên.

Lúc thấy việc này lại nên dạy buộc niệm trụ ý trong ánh sáng ở rún của mình, không cho tâm phân tán. Bấy giờ tâm ý hết sức an ổn. Ðã an ổn rồi lại nên tự học thẩm xét phân biệt các Thánh giải thoát.

Bấy giờ lại sẽ thấy bảy Ðức Phật quá khứ vì mình thuyết pháp. Thuyết pháp là nói bốn chân đế, nói năm thọ ấm rỗng không, không có cái ta. Lúc đó chư Phật và chư Hiền Thánh thường đến trước hành giả dạy các loại pháp. Cũng dạy quán không, vô ngã, vô tác, vô nguyện tam-muội. Bảo rằng: Này pháp tử! Nay con phải nên quán kỹ sắc, thanh, hương, vị, xúc thảy đều vô thường, không đứng lâu được; mà tức thời biến diệt nhanh như điện chớp, Cũng lại giống như huyễn, giống như ngựa hoang, như ngọn lửa lúc cháy, như thành càn-thát-bà, như điều thấy trong mộng, thức dậy không biết ở đâu. Như đục đá nháng lửa, phút chốc biến diệt. Như chim bay trên không, dấu vết không tìm được. Như tiếng vang của tiếng gọi không có người đáp. Nay con cũng nên quán như thế. Ba cõi như huyễn, cũng như sự biến hóa. Thế là liền thấy tất cả trong thân và ngoài thân trống không vô sở hữu. Như chim bay trên không không có chỗ dừng.Tâm vượt ba cõi. Quán các thế gian, Tu-di, biển lớn đều không tồn tại lâu dài, cũng như huyễn hóa. Tự quán thân mình không thấy thân tướng. Lại nhớ nghĩ rằng thế giới vô thường, tam giới bất an, tất cả đều không. Có thân ở đâu cùng vật xúc đối? Những sắc dục và những người nữ này từ điên đảo khởi, thấy khả ái là sai trái. Sự thật là pháp hủ bại hoại diệt rất mau. Nữ sắc giống như cùm khóa làm lao khổ tinh thần con người. Người ngu mê luyến không biết chán đủ, không thể từ bỏ, không khỏi xiềng xích, không dứt gông cùm. Hành giả đã biết pháp tướng, biết pháp không tịch thì đối với những sắc dục này giống như giặc thù đâu đáng luyến tiếc. Lại giống như lao ngục kiên cố kín bít khó buông xả. Nay ta quán không, chán lìa ba cõi. Quán thấy thế gian như bọt trên nước, cái ấy tất phải tiêu diệt, tâm không có các tưởng, biết được thế pháp hoạn lụy nặng nề. Kẻ phàm phu mê hoặc đến chết cũng không giác tỉnh, không biết các khổ mê luyến khó tránh, phóng túng tình sắc mê cuồng không đâu không đến. Nay ta quán thấy sự mê cuồng nữ sắc này như tiếng vang, cũng giống như tượng trong gương, tìm cầu không thể được. Quán nữ sắc này ở nơi đâu cũng đều là vọng kiến suy hại, dối gạt những kẻ phàm phu, làm hại rất nhiều. Nay quán sắc này giống như hoa bay loạn theo gió rơi rụng, xuất hiện không từ đâu đến, cũng không đến đâu, huyễn hoặc không thật mà người ngu vui thích mê đắm. Nay quán sắc này tất cả vô thường, như người bịnh hủi mà lương y trị sai. Nay ta quán khổ, không, vô thường, thấy sắc tướng này đều không kiên cố có thật, nghĩ đến những kẻ phàm phu rất đáng thương xót, mê đắm sắc này kính trọng không chán. Vì ngu mê say đắm dục lạc ngon ngọt không cùng, nên làm các việc ân ái mà thành nô bộc, cũng như muốn dùng giáo dài đâm mình đau suốt tim tủy. AÂn ái là cùm khóa ràng buộc thân mình! Quán niệm về mình như thế, lại quán tất cả thảy đều không tịch. Các sự dâm dục và các tình thái sắc dục này đều từ năm ấm, bốn đại mà sanh. Nhưng năm ấm vô chủ, bốn đại vô ngã, tính tướng đều không thì do đâu mà có?

Lúc quán như thế thì trí tuệ sáng tỏ thấy thân rất sáng như ngọc ma-ni, không có chướng ngại, giống như kim cương hoàn toàn thanh bạch sáng rỡ. Như nai bị vây đột nhiên khỏi được cái khổ nguy hại của người thợ săn. Quán tính tướng năm ấm đều thanh tịnh, quán sáu đại như chim bay liệng trên cao, thân không nơi nương tựa. Nhờ tiêu diệt lưỡi câu sắc dục, cố gắng vươn lên mà được độ. Lìa các nữ sắc, lại không phát khởi vọng tình, tự nhiên vượt ra ngoài biển dâm dục. Tất cả kiết sử giống như những con cá tranh nhau đuổi theo rơi vào hầm tối. Vô minh lão tử bị lửa trí tuệ đốt cháy. Quán sắc tạp uế xấu ác bất tịnh, giống như huyễn hoặc không có lúc tạm dừng. Vĩnh viễn lìa xa sự đắm nhiễm về sắc thì không bị sắc trói buộc.

Ðức Phật bảo A-nan: Nếu có tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di tham dâm nhiều, thì trước dạy quán Phật , khiến xa lìa các tội. Nhiên hậu mới nên dạy buộc niệm, khiến tâm không phân tán. Ðếm hơi thở là cách trừ tâm tán loạn. Pháp đếm hơi thở này là thuốc trừ tham dâm, là chỗ sở hành của Vô thượng pháp vương. Ông khéo thọ trì, cẩn thận chớ để quên mất. Tưởng này thành thì gọi là quán sổ tức thứ 20 xong.

Bấy giờ A-nan,Tôn giả Thiền Nan-đề cùng chư tỳ-kheo nghe Ðức Phật nói vui vẻ phụng hành.

 

XXI. Có một thời tôi nghe như vầy: Ðức Phật du hành trong nước Xá-vệ , giáo hóa đến tụ lạc Ða-la. Ðến tụ lạc rồi cùng 1.250 vị tỳ-kheo vào thôn khất thực. Khất thực rồi trở về, ở dưới gốc cây, rửa chân rồi thu dọn y bát, trải ni-sư-đàn, ngồi kiết già. Bấy giờ trong chúng có một tỳ-kheo tên là Ca-chiên-diên, có một đệ tử tên là Bàn-trực-ca, xuất gia đã lâu, qua tám trăm ngày độc tụng một bài kệ mà không thể thông hiểu. Ngày đêm sáu thời luôn tụng lời này: “Dứt ác làm lành, tu không phóng dật”, chỉ tụng lời này mà cuối cùng không thuộc. Bấy giờ Tôn giả Ca-chiên-diên  dùng hết đạo lực dạy trao cho đệ tử mà không thể đạt được. Liền đến chỗ Phật làm lễ, nhiễu Phật ba vòng và bạch Phật rằng: Như lai ra đời có nhiều lợi ích, làm lợi lạc an ổn cho trời người, độ khắp tất cả, chỉ riêng đệ tử của con chưa được thấm nhuần. Cúi xin Ðức Thế Tôn vì con khai ngộ khiến Bàn-trực-ca được giải thoát.

Ðức Phật bảo Ca-chiên-diên: Hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ ghi nhớ. Nay Như lai sẽ vì ông nói về nhân duyên xưa kia.

Ca-chiên-diên bạch: Thưa đức Thế tôn, con xin muốn nghe.

Ðức Phật bảo Ca-chiên-diên: Cách đây 91 kiếp có Phật Thế tôn tên là Tỳ-bà-thi, Như lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Ðiều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật Thế tôn. Ðức Phật đó ra đời giáo hóa chúng sanh, độ người khắp cả rồi bát-niết-bàn mà diệt độ. Sau khi Ðức Phật diệt độ, có một tỳ-kheo thông minh nhiều trí, độc tụng ba tạng, tự thị kiêu mạn, tán loạn phóng dật, có người theo học mà không chịu dạy truyền , chỉ chuyên cống cao, không tu chánh niệm. Sau khi mệnh chung đọa vào địa ngục hắc ám, trải qua chín mươi kiếp luôn ở chỗ tối tăm, ngu muội vô trí. Do công đức lực xuất gia đời trước, nên từ địa ngục ra được sanh lên cõi trời. Tuy sanh lên cõi trời mà thiên cung và các cúng cụ, tất cả đen tối thấp kém hơn chư thiên. Nhờ tụng ba tạng, trên cõi trời mệnh chung, sanh về Diêm-phù-đề, gặp Phật ở đời. Do trước cống cao, tuy gặp Phật mà không hiểu pháp tướng. Nay Ta sẽ nói các phương tiện, dạy pháp buộc niệm.

Bấy giờ Ca-chiên- diên bạch Ðức Phật rằng: Thưa Ðức Thế tôn, cúi xin Như lai vì tỳ-kheo Bàn-trực-ca này và tất cả chúng sanh ngu si loạn tưởng đời vị lai mà nói pháp chánh quán.

Ðức Phật bảo Bàn-trực-ca: Từ ngày nay ông thường ở chỗ vắng, nhứt tâm ngồi thẳng, bắt tréo tay, nhắm mắt, nhiếp thân khẩu ý, cẩn thận chớ phóng dật. Bởi ông trong nhiều kiếp phóng dật và chịu cần khổ lâu dài. Ông hãy theo lời Ta quán kỹ các pháp.

 Lúc Bàn-trực-ca thuận theo lời Phật, ngồi ngay buộc tâm, Ðức Phật bảo Bàn-trực-ca: Nay ông phải nên quán kỹ đốt xương ngón chân cái, khiến tâm không di dich, làm cho trên đốt ngón chân dần dần nổi phồng, lại khiến trương phình lên, rồi dùng ý khiến chỗ trương phình này lớn dần như hạt đậu. Lại dùng ý khiến chỗ trương phình hư nát, da thịt chia hai, mủ vàng chảy ra, trong mủ vàng máu chảy ròng ròng, da thịt trên một đốt hư hết, chỉ thấy đốt ngón chân phải trắng như ngọc tuyết. Thấy một đốt rồi từ chân phải dần dần rộng lớn, cho đến nửa thân phình trương hư hoại, máu chảy trong mủ vàng, khiến da thịt nửa thân phân ra hai bên, chỉ thấy xương nửa thân rất trắng. Thấy nửa thân rồi, lại thấy toàn thân, tất cả trương phình lên, đều hư hoại, máu mủ kinh tởm, thấy các tạp trùng dạo chơi trong đó, nhiều loại như thế giống như ở trên. Thấy một thân rồi lại thấy hai thân. Thấy hai thân rồi lại thấy ba thân. Thấy ba thân rồi lại thấy bốn thân. Thấy bốn thân rồi lại thấy năm thân. Thấy năm thân rồi cho đến thấy  mười thân. Thấy mười thân rồi tâm rộng lớn dần thấy trong một phòng. Thấy trong một phòng rồi cho đến thấy một thiên hạ. Thấy một thiên hạ rồi nếu rộng thì lại thu nhiếp khiến trở về quán một thân như trước.

Quán rồi lại nên chuyển tưởng, buộc niệm quán kỹ đầu mũi. Quán đầu mũi rồi tâm không phân tán. Nếu không phân tán thì quán xương như trước. Lại nên tự tưởng da thịt thân thể đều do tinh khí bất tịnh của cha mẹ hòa hợp tạo thành. Chủng tử của thân này bất tịnh như vậy. Kế lại nên dạy buộc niệm quán răng. Trong thân người chỉ răng này trắng. Xương thân của ta trắng như răng này. Tâm tưởng mãnh lợi nên thấy răng dài lớn giống như thân thể.

           Bấy giờ lại nên chuyển tưởng, quán trên trán. Khiến xương trắng trên trán trắng như ngọc tuyết. Nếu không trắng thì nên đổi cách, dạy quán cửu tưởng. Nói rộng như pháp cửu tưởng quán. Lúc hành pháp quán này, nếu người độn căn qua một tháng cho đến chín mươi ngày quán kỹ việc này rồi sau mới thấy. Nếu người lợi căn thì một niệm liền thấy. Thấy việc này rồi, lại dạy quán xương trắng đốt lớn trong eo lưng. Thấy rồi nên quán người xương có nhiều màu sắc như trước. Nếu pháp này không thành thì nên dạy từ tâm quán. Từ tâm quán nói rộng như từ tam-muội. Dạy quán từ tâm rồi lại dạy quán xương trắng. Nếu thấy việc khác thì cẩn thận chớ đuổi theo. Chỉ khiến tâm này rõ ràng phân minh, thấy người xương trắng như núi tuyết trắng. Nếu thấy vật khác thì khởi tâm diệt trừ. Nên quán niệm như sau: Ðức Như lai Thế tôn dạy ta quán xương, vì sao tưởng cảnh giới khác. Nay ta phải nên nhứt tâm quán xương. Thấy xương trắng rồi, làm cho tâm trong lặng không có các tưởng ngoài. Thấy người xương trắng khắp trong ba ngàn đại thiên thế giới. Thấy người xương này rồi, nhứt nhứt đều diệt, quán khổ như trước.

            Bấy giờ tỳ-kheo Bàn-trực-ca nghe Ðức Phật nói những lời này giờ lại nên chuyển tưởng, quán trên trán. Khiến xương trắng trên trán trắng như ngọc tuyết. Nếu không trắng thì nên đổi cách, dạy quán cửu tưởng. Nói rộng như pháp cửu tưởng quán. Lúc hành pháp quán này, nếu người độn căn qua một tháng cho đến chín mươi ngày quán kỹ việc này rồi sau mới thấy. Nếu người lợi căn thì một niệm liền thấy. Thấy việc này rồi, lại dạy quán xương trắng đốt lớn trong eo lưng. Thấy rồi nên quán người xương có nhiều màu sắc như trước. Nếu pháp này không thành thì nên dạy từ tâm quán. Từ tâm quán nói rộng như từ tam-muội. Dạy quán từ tâm rồi lại dạy quán xương trắng. Nếu thấy việc khác thì cẩn thận chớ đuổi theo. Chỉ khiến tâm này rõ ràng phân minh, thấy người xương trắng như núi tuyết trắng. Nếu thấy vật khác thì khởi tâm diệt trừ. Nên quán niệm như sau: Ðức Như lai Thế tôn dạy ta quán xương, vì sao tưởng cảnh giới khác. Nay ta phải nên nhứt tâm quán xương. Thấy xương trắng rồi, làm cho tâm trong lặng không có các tưởng ngoài. Thấy người xương trắng khắp trong ba ngàn đại thiên thế giới. Thấy người xương này rồi, nhứt nhứt đều diệt, quán khổ như trước.

            Bấy giờ tỳ-kheo Bàn-trực-ca nghe Ðức Phật nói những lời này nhứt nhứt quán kỹ, tâm không phân tán, rõ ràng phân minh. Ðúng lúc liền được đạo A-la-hán, ba minh, sáu thông, đủ tám giải thoát.Tự nhớ đời trước học tập ba tạng rõ ràng phân minh, cũng không sai lầm.

          Bấy giờ Ðức Thế tôn nhân tỳ-kheo Bàn-trực-ca ngu si cống cao này mà chế pháp quán xương trắng thanh tịnh này.

          Ðức Phật bảo Ca-chiên-diên: Tỳ-kheo ngu si Bàn-trực-ca này còn nhờ buộc niệm thành A-la-hán, huống là người trí mà không tu thiền.

          Bấy giờ Ðức Thế tôn dạy việc này rồi nói kệ rằng:

Thiền là pháp cam lồ

 Ðịnh tâm diệt các ác

 Tuệ giết các ngu si

 Mãi không thọ thân sau

 Bàn-trực-ca ngu si

 Còn nhờ định tâm được

 Huống là những người trí

 Không siêng tu buộc niệm.

 

          Bấy giờ Ðức Thế tôn bảo Ca-chiên-diên và dạy A-nan: Nay các ông nên thọ trì lời dạy của Phật, dùng diệu pháp này độ khắp quần sanh. Nếu đời sau có chúng sanh ngu si, chúng sanh kiêu mạn cống cao tà ác muốn ngồi thiền thì theo phép quán đầu tiên của Ca-hy-la Nan-đà và phép quán tượng của Thiền Nan-đà. Nên học phép quán của tỳ-kheo Bàn-trực-ca này. Nhiên hậu tự quán thân mình thấy các xương trắng trắng như ngọc tuyết. Lúc những người xương vào thân trở lại, đều thấy xương trắng tuôn ra ánh sáng và tan mất.

          Thấy việc này rồi hành giả tự nhiên tâm ý vui hòa điềm tĩnh vô vi. Lúc xuất định trên đỉnh đầu ấm nóng, trong lỗ chân lông của thân thường bay ra những mùi thơm. Xuất định nhập định thường nghe diệu pháp. Lại tiếp tục tự thấy thân thể ấm nóng vui vẻ khoái lạc, dung mạo vui tươi, luôn ít ngủ nghỉ, thân không khổ hoạn. Ðược noãn pháp này thường tự hiểu biết, tâm bớt nóng nảy, thường an lạc. Nếu người đời sau muốn học thiền thì học từ pháp bất tịnh đầu tiên cho đến pháp này. Ðắc pháp này gọi là pháp hòa ấm.

          Ðức Phật bảo A-nan: Sau khi Phật diệt độ, nếu có tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di ở trong đời ác trược muốn học chánh thọ tư duy, thì học từ quán buộc niệm đầu tiên là bất tịnh cho đến pháp này, gọi là noãn pháp. Nếu đắc pháp này gọi là quán noãn pháp thứ 21 xong.

          Ðức Phật bảo A-nan: Nay ông trì giữ noãn pháp này được thầy Ca-chiên-diên thưa hỏi, cẩn thận chớ để quên mất.

         

          XXII. Bấy giờ A-nan bạch Phật : Thưa Ðức Thế tôn, chúng sanh đời sau, nếu có người thọ trì được tam-muội này, nhứt tâm an ổn được noãn pháp này, thì người này sẽ tự giác tri như thế nào?

          Ðức Phật bảo A-nan: Nếu có người quán kỹ các tướng kiết sử, từ quán bất tịnh đầu tiên cho đến pháp này, thì tự biết thân tâm đều ấm nóng, tâm tâm tương tục không có các phiền não sân giận, nhan sắc hòa vui. Ðây gọi là noãn pháp.

          Lại nữa A-nan! Nếu có hành giả đắc noãn pháp rồi kế nên dạy buộc niệm tại giữa các xương trắng đều có ánh sáng trắng. Lúc thấy ánh sáng trắng thì xương trắng tan mất. Nếu còn cảnh giới hiện ở trước thì lại phải nhiếp tâm quán lại ánh sáng trắng, thấy các ánh sáng trắng như thiêu đốt lan tràn khắp thế giới. Tự quán thân mình lại sáng sạch, dù pha lê núi tuyết cũng không bằng được. Tự thấy từng người xương lìa tan. Lúc quán này hãy định tâm cho lâu. Tâm đã định rồi sẽ tự thấy trên đỉnh đầu có ánh sáng lớn, giống như ánh sáng của lửa từ trong não phát ra.

          Ðức Phật bảo A-nan: Nếu thấy việc này lại nên dạy quán từ đầu đến chân cẩn thận qua lại tất cả mười bốn lần. Quán này rồi, lúc xuất định nhập định thường thấy lửa phát ra trên đỉnh đầu như ánh sáng vàng ròng. Trong lỗ chân lông của thân thể cũng phát ra ánh sáng vàng như những hạt vàng nhỏ li ti. Thân tâm an lạc như ánh sáng tử kim trở vào đỉnh đầu. Ðây gọi là đảnh pháp. Khi có hành giả đắc quán này, là đắc được pháp đảnh quán.

          Ðức Phật bảo A-nan: Ông khéo thọ trì pháp đảnh quán này, vì tất cả chúng sanh đời sau nói rộng.

          Bấy giờ A-nan nghe Ðức Phật nói vui vẻ phụng hành.             Ðắc quán này gọi là pháp quán đảnh thứ 22 xong.

          XXIII. Ðức Phật bảo A-nan: Tưởng này thành rồi lại

phải dạy buộc niệm quán các xương trắng, khiến các xương tan ra, như gió thổi tuyết tụ tại một nơi, tự nhiên thành đống, trắng như núi tuyết. Nếu thấy việc này thì đắc đạo không khó. Nếu có người đời trước phạm giới, đời này phạm giới thì thấy xương tan tích tụ giống như tro đất, hoặc thấy các vật đen ở trên. Lại nên sám hối, đến người trí nói lỗi của mình. Ðã sám hối rồi, thấy trên đống xương có ánh sáng trắng lớn, cho đến cõi Vô Sắc. Xuất định nhập định thường được an lạc. Gốc ái lại dần dần mỏng yếu.                                        Lại phải quán chín lỗ trở lại như trước, thấy chảy vật bất tịnh đậm đặc, đều khiến rõ ràng, tâm không nghi ngờ hối hận. Lại sẽ thấy giữa các xương như trên sinh lửa đốt các vật bất tịnh. Vật bất tịnh đã hết thì ánh sáng vàng lưu xuất vào lại trong đảnh. Lúc ánh sáng này vào đỉnh đầu thì thân thể khoái lạc, không có gì để ví dụ. Ðắc quán này gọi là pháp quán trợ đảnh phương tiện thứ 23 xong.

 XXIV. Lại nên dạy buộc niệm trụ ý tự quán thân mình giống như bó cỏ. Lúc xuất định lại thấy thân mình giống như cây chuối nhiều bẹ bọc nhau. Lại thân như hơi, cũng không thấy xương. Xuất định nhập định thường thấy việc này, thân thể gầy yếu. Lại phải dạy để tự quán thân tụ lại thành một như    XXIV. Lại nên dạy buộc niệm trụ ý tự quán thân mình giống như bó cỏ. Lúc xuất định lại thấy thân mình giống như cây chuối nhiều bẹ bọc nhau. Lại nên tự quán lá những cây chuối giống như túi da. Trong thân như hơi, cũng không thấy xương. Xuất định nhập định thường thấy việc này, thân thể gầy yếu. Lại phải dạy để tự quán thân tụ lại thành một bó cỏ khô, thấy thân cứng chắc. Ðã thấy cứng chắc, lại nên dùng bơ, ăn uống điều hòa thích hợp. Rồi sau quán thân trở lại giống như cái túi rỗng có lửa từ trong cháy hết thân này. Thiêu thân hết rồi, lúc nhập định thường thấy ánh lửa. Quán thấy lửa rồi, thấy tất cả bốn phương lửa nổi dậy. Xuất định nhập định thân nóng như lửa. Thấy hỏa đại này nổi lên từ bộ phận của thân thể. Lửa từ trong tất cả lỗ chân lông phát ra. Lúc xuất định cũng tự thấy thân như lửa lớn tụ. Thân thể bị chưng đốt không thể tự kềm giữ. Bấy giờ bốn phương có núi lửa lớn đều đến tập hợp trước hành giả. Tự thấy thân mình và nhiều lửa hợp lại ở đây gọi là hỏa tưởng. Lại làm cho lửa thiêu thân đều hết. Lửa đã cháy hết, lúc nhập định quán thân không thân, thấy thân đều bị lửa đốt hết. Lửa đốt hết rồi, tự nhiên được biết trong thân vô ngã. Tất cả kiết sử đều đồng như thế, không thể nói hết. Ðây gọi là hỏa tưởng, hỏa đại chân thật, quán hỏa đại thứ 24 xong.

         Ðức Phật bảo A-nan: Ông khéo thọ trì phép quán hỏa đại vô ngã này. Quán hỏa đại này gọi là lửa trí tuệ đốt các phiền não. Ông khéo thọ trì, vì tất cả chúng sanh đời vị lai, nên phu diễn rộng.

          Bấy giờ A-nan nghe Ðức Phật nói vui vẻ phụng hành.

          XXV. Ðức Phật bảo A-nan: Nếu có hành giả đắc quán hỏa đại rồi, lại phải dạy buộc niệm tư duy, bảo buộc niệm ngay mũi. Lại quán hỏa đại này từ nơi nào khởi. Lúc quán hỏa này, tự quán thân mình đều không có ngã. Ðã không có ngã hỏa tự nhiên diệt. Lại nên quán niệm thân mình vô ngã, tứ đại vô chủ. Các kiết sử này và sự sai sử căn bản từ điên đảo khởi. Ðiên đảo cũng không thì vì sao trong pháp không này thấy một cách trái ngược là thân có lửa. Lúc quán như thế, lửa và ngã tìm không thấy. Ðây gọi là quán hỏa đại vô ngã.

           Ðức Phật bảo A-nan: Ông khéo thọ trì phép quán hỏa đại này, vì tất cả chúng sanh đời sau nên phân biệt, phu diễn, giải nói rộng.

           A-nan nghe Ðức Phật nói vui vẻ phụng hành

           Ðây gọi là quán thứ 25 xong.

           Ðức Phật bảo A-nan: Ta thấy lúc hỏa diệt, diệt từ mũi trước, rồi sau thân thể nhứt thời đều diệt. Tâm hỏa trong thân, 88 kiết cũng đều được diệt. Trong thân mát mẻ điều hòa. Tự giác ngộ một cách sâu xa, rõ ràng phân minh, quyết định vô ngã. Xuất định nhập định thường biết trong thân không có ngã. Ðây gọi là quán diệt vô ngã xong.

           XXVI. Ðứ Phật bảo A-nan: Lại phải dạy phép quán quán đảnh. Quán quán đảnh là tự thấy thân mình như ánh sáng lưu ly vượt ra ba cõi. Thấy có chân Phật dùng nước bình rửa từ đầu mà rưới đầy khắp trong thân. Khắp thân rồi, các bộ phận trong thân cũng đầy, từ trong rún chảy ra trên đất phía trước. Ðức Phật thường rưới nước. Lúc Ðức Thế tôn quán đảnh rồi liền biến mất. Nước trong rún chảy ra giống như lưu ly. Màu như ánh sáng lưu ly xanh sậm. Quang khí đầy khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Nước chảy ra hết rồi, lại phải dạy buộc niệm nguyện Phật Thế tôn vì mình quán đảnh. Bấy giờ tự nhiên thấy thân như khí thô đại, rất rộng vượt ra ngoài ba cõi. Thấy nước từ đỉnh đầu vào, thấy thân thô đại đồng với nước, đầy trong nước. Lại tự thấy rún giống như suối phun hoa sen chảy ra đầy khắp thân mình. Vòng quanh thân như ao có những hoa sen. Mỗi một hoa sen có bảy màu sáng rỡ. Aùnh sáng ấy diễn nói các pháp khổ, không, vô thường, vô ngã. Tiếng như Phạm âm làm vui tai.

          Lúc hiện tượng này xuất hiện, lại phải bảo tréo tay nhắm mắt nhứt tâm ngồi thẳng. Tự quán trong thân từ trên đỉnh đầu không thấy cốt tưởng. Xuất định nhập định tự thấy thân mình như bình lưu ly. Lại phải khởi niệm, tưởng rồng độc tứ đại từ tim mình. Thấy rồi, trong tim như lỗ chân lông khai mở, có sáu loại rồng. Mỗi con rồng có sáu đầu, đầu phun độc giống như gió lửa tràn đầy trên hoa sen trong ao. Mỗi một ánh sáng của hoa chảy vào đỉnh đầu rồng. Lúc ánh sáng vào đỉnh đầu, độc của rồng tự hết, chỉ  có nước lớn đầy trong thân. Lúc tưởng này thành gọi là quán thất giác hoa. Tuy thấy tưởng này nhưng trong thiền định sâu còn chưa thông đạt. Lại phải dạy đếm hơi thở như trên, khiến tâm an ổn điềm nhiên vô niệm. Lúc tưởng này thành gọi là quán tứ đại tương ứng thứ 26 xong. ( 26 xong- người dịch thêm).

          Ðức Phật bao A-nan: Ông khéo thọ trì quán thất giác ý tứ đại tương ứng này, cẩn thận chớ để quên mất, vì khắp tất cả chúng sanh đời vị lai, nên phân biệt rộng, vì chư tứ chúng phu diễn giải nói.

          Bấy giờ A-nan nghe Ðức Phật nói vui vẻ phụng hành.

 

          XXVII. Lại phải dạy buộc niệm trụ ý quán thủy đại từ lỗ chân lông chảy ra đầy khắp thân mình. Xuất định nhập đinh thấy thân như cái ao, nước màu lục. Nước màu lục này giống như suối trên đỉnh núi, từ đỉnh mà xuất từ đỉnh mà nhập. Thấy có bảy hoa thuần màu kim cương, phóng ra ánh sáng màu vàng. Trong ánh sáng sắc vàng có người kim cang tay cầm kiếm bén chém sáu rồng ở trước. Lại thấy nhiều lửa từ miệng rồng phun ra khắp thân. Lửa cháy nước khô kiệt, lửa liền tắt hết. Nước và lửa diệt hết rồi tự thấy thân mình dần dần lớn trắng giống như kim cương. Xuất định nhập định tâm ý khoái lạc giống như dùng bơ sữa, như uống đề hồ, thân tâm an lạc.

          Lại phải dạy buộc niệm quán pháp khác, quán cảnh giới bên ngoài. Vì tưởng ở ngoài nên tự nhiên thấy có một cây sinh quả lạ ngọt. Quả ấy đầy đủ bốn màu bốn ánh sáng. Cây trái như thế như cây lưu ly đầy khắp tất cả. Thấy cây này rồi thấy khắp tất cả bốn loài chúng sanh bị lửa đói bức bách tất cả lại xin. Thấy rồi vui vẻ, sinh lòng thương xót, liền khởi tâm từ. Thấy người xin này như cha mẹ của mình chịu nhiều khổ não, nay ta làm sao cứu bạt. Quán niệm này rồi, liền tự quán thân trở lại như trước, là mủ máu lại là thịt khúc cầm cho người đói. Ăn no rồi chạy đi bốn phía.

           Bấy giờ lại nên tự quán thân mình cho đến thân người. Thân mình và thân người từ điên đảo khởi, thật vô ngã sở. Nếu có ngã, vì sao bỗng nhiên thấy có ngạ quỷ này đến ở bên mình. Bấy giời lại thấy vô lượng ngạ quỷ, thân cao lớn vô lượng vô biên, đầu như núi lớn, yết hầu như sợi tóc, bị lửa đói bức bách kêu gào xin ăn. Thấy việc này rồi nên khởi tâm từ, dùng thân thí cho quỷ. Quỷ đói được rồi cắn ăn, thân thể liền no đủ.

           Thấy việc này rồi, lại phải dạy quán nhiều ngạ quỷ, thấy ngạ quỷ nhiễu thân bốn vòng. Lấy thân cho các ngạ quỷ ăn như trước. Thấy việc này rồi lại dạy nhiếp thân khiến tâm không phân tán. Tự quán thân mình là chỗ tụ tập bất tịnh. Lúc quán như thế liền tự thấy thân mủ máu và các thịt đều đoạn đoạn hoại, tụ tập trên đất phía trước, thấy những chúng sanh giành giựt ăn.

          Ðã thấy việc này lại nên tự quán thân từ các khổ sanh, từ các khổ có, là pháp bại hoại, không lâu sẽ tiêu diệt, bị ngạ quỷ ăn. Lúc tưởng như thế bỗng thấy chỗ tim trong thân  có lửa mạnh cháy, tất cả hoa sen trên ao phía trước, các ngạ quỷ có nhiều hình xấu ác và nước ao sâu rộng đều hết. Thấy việc này rồi, lại nên dạy quán kỹ thân mình, thân thể bình phục đầy đủ như trước. Lại nên quán tất cả lỗ chân lông của thân mình, nhờ tâm từ nên máu biến thành sữa, từ lỗ chân lông chảy ra trên đất như ao, sữa nhiều sung mãn. Lại thấy rất nhiều ngạ quỷ đến trên ao này, do tội xưa nên không uống sữa được. Bấy giờ lấy tâm từ nhìn quỷ như con, muốn cho uống sữa. Vì tội của quỷ nên sữa biến thành mủ. Trong khoảng chờ đợi ấy tâm từ trở lại. Nhờ tâm từ nên tất cả sữa trong lỗ chân lông của thân chảy ra nhiều gấp đôi số trước. Nghĩ đến các ngạ quỷ đói khổ bị bức bách sao không đến uống. Bấy giờ ngạ quỷ hình cao lớn vài mươi do tuần bước đi như tiếng 500 chiếc xe, đi đến trước hành giả kêu rằng đói đói. Bấy giờ hành giả liền dùng tâm từ cho sữa để uống. Lúc ngạ quỷ uống đến miệng biến thành mủ. Tuy là mủ nhưng do tâm từ của hành giả nên liền được no đủ.

          Thấy quỷ no rồi lại tự quán thân, liền tự thấy dưới chân mình lửa bốc lên đốt chúng sanh phía trước cho đến các cây to lớn đều cháy hết. Bấy giờ nếu thấy có nhiều dị loại, thì trở lại buộc niệm quán kỹ thân mình, khiến tâm không động, vắng lặng vô niệm. Ðã không niệm tưởng, nên phát thệ nguyện, nguyện sanh đời sau, không chịu quả báo hậu hữu, không vui thế gian. Nguyện này rồi liền thấy đất phía trước giống như lưu ly. Thấy dưới lưu ly có nước sắc vàng. Tự thấy thân mình đồng với đất, giống với màu nước, nước ấy ấm nóng. Trong nước sanh cây như bảy báu, cây cành lá rậm rạp. Trên có bốn quả. Tiếng của quả như tiếng linh, diễn thuyết pháp khổ, không, vô thường, vô ngã. Nghe tiếng này rồi tự thấy thân mình chìm trong nước, đi đến chỗ cây. Tự chăm chú quán thân, thấy nước trên đỉnh đầu chảy ra, đầy trong ao lưu ly. Bỗng chốc lại có lửa nổi lên. Trong lửa sinh gió giống như lưu ly. Lại thấy trên đỉnh, từ đỉnh cứng chắc đến chân giống như kim cương, lại có lửa nổi lên, đốt kim cương hết, nước ấm cạn khô.

         Liền lại quán thân, phía trước mình, thấy trong ao trong thân bỗng nhiên có cây cành lá đầy đủ. Cây mới có quả, tiếng của nó như tiếng linh, diễn thuyết pháp thanh tịnh về khổ, không, vô thường, vô ngã. Quả mầu nhiệm như thế có âm thanh hay, hương vị đầy đủ, nay ta nên ăn. Tưởng như thế rồi liền ngước lên cây hái quả ăn. Mới được một quả mà mùi vị ngon ngọt, không có vật gì ví dụ được. Ðã ăn quả rồi thì thấy cây khô héo. Chỉ còn ba quả hãy còn tươi sáng. Sau khi ăn quả thân tâm điềm đạm, không có tưởng lo vui. Tự quán tâm thức là pháp bại hoại, từ các khổ mà cò. Căn bản của các khổ, thức là nhân duyên. Nay quán thức này như bọt trên nước, không có lúc tạm dừng. Tứ đại vô chủ, thân không có ngã, thức không chỗ y chỉ. Quán các pháp như thế lại bảy thất 49 lần, và quán kỹ tâm thức là pháp bại hoại.

         Bấy giờ tự thấy thân mình trắng như ngọc tuyết, đốt đốt chống lên nhau. Lại phải dạy tự lấy tay mặt xoa thân này. Thấy xương thân như bụi, nát như phấn, như đất bụi phấn. Lại dạy quán thân như hơi, từ sổ tức mà có. Thân như túi hơi không có lúc tạm dừng. Lại phải dạy tự quán thân trở lại thành một người xương trắng như trước. Thấy người xương rồi, tự quán thân mình như trước, nát tan trở lại, giống như vi trần, như người lấy phấn bôi ở đất. Bỗng thấy trên đất có người xương màu xanh tan nát như trước, lấy bôi trên đất. Lại quán thân như bụi nhỏ màu xanh, bụi nhỏ biến thành người xương, xương ấy đen hết sức. Lại nên lấy xương vụn nát bôi lên đất như trước. Lại tự quán thân giống như đất đen. Thấy trong đất đen có bốn con rắn đen, mắt đỏ như lửa. Rắn đến bức hại thân, phun nọc độc muốn hại, nhưng không làm hại được, liền biến thành lửa tự thiêu thân mình. Bấy giờ trong hư không tự nhiên có tiếng luôn nói những pháp khổ, không, vô thường, vô ngã. Lúc thấy việc này mỗi con rắn độc có tám mươi tám đầu bị lửa đốt. Lúc thấy việc này, trong hư không tự nhiên có nước rưới lên thân rắn độc. Lửa tắt hết thì tám mươi tám đầu, tất cả đều tiêu.

          Lúc xuất định thấy thân an lạc lặng lẽ vô vi. Lại nên dạy tự quán thân mình, tưởng không cao lớn. Bỗng lại thấy thân tự nhiên cao lớn rực rỡ khả quan, như núi bảy báu. Tự thấy tâm mình như ngọc ma-ni. Bấy giờ lại nên quán không như trên. Lúc quán không, tự biết thân mình vui hòa mềm mại khoái lạc vô tỷ.  Ánh sáng màu bảy báu trên hoa sen phía trước chiếu vào tim mình, xuyên qua đủ mười lần trong ngọc ma-ni. Bảy chi bảy màu thảy đều đầy đủ. Tự quán thân rỗng không cũng không các tưởng. Bấy giờ trên đỉnh đầu tự nhiên có ánh sáng giống như mây màu vàng. Cũng như lộng báu, màu lại giống bạc. Vào từ đỉnh đầu, che trên ánh sáng ngọc ma-ni. Xuất định nhập định luôn thấy việc này. Người thấy việc này tự nhiên không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ, không uống rượu.

          Ðức Phật bảo A-nan: Sau khi Phật diệt độ, bốn bộ đệ tử: tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di tu tập quán này, gọi là chánh quán thứ 27 (bản chữ Hán là 26- người dịch). Cũng gọi là được Tu-đà-hoàn đạo. Nếu đắc quán này phải nên biết rõ sự thật, khiến thân tự nhiên lìa năm loại ác, hợp với kinh, không trái luật, tùy thuận luận. Ðây gọi là Tu-đà-hoàn quả tướng.

         Bấy giờ A-nan nghe Ðức Phật nói vui vẻ phụng hành.

 

         XXVIII. Ðức Phật bảo A-nan: Nếu có hành giả đắc quán này, nên giữ kín, chớ vọng tuyên truyền. Chỉ nên nhứt tâm cần hành tinh tấn. Cần hành tinh tấn rồi, lại phải dạy quán kỹ địa đại. Pháp quán địa đại cũng nói như trên. Quán địa đại rồi, kế dạy quán thủy đại. Quán thủy đại là tự quán các nước trong thân mình, thân như lưu ly cứng chắc khó hoại. Nếu thấy tự thân đều là nước, thì nên dạy chuyển phép quán. Nếu lại thấy hết cả thân thành lưu ly cũng dạy chuyển phép quán. Quán địa đại khiến thân lưu ly giống như hơi nhẹ, thấy nước từ trong mắt hiện ra. Nếu thấy việc này gọi là quán tứ đại một cách vi tế. Lại dạy quán từ đầu trở lên khiến nước đầy ở trong. Thấy nước từ trong mắt chảy ra cũng không rơi xuống đất. Tự thấy mắt mình như bọt trên nước, cũng đầy nước ở trong. Nếu thấy việc này thì nước ở đầu không ấm không lạnh, điều hòa vừa phải. Nếu nước ấm là quán giả ngụy. Ðúng ra thì sắc nước trong lặng không ấm không mát. Kế nên dạy quán từ eo lưng trở lên, nước không ấm không lạnh. Lại quán yết hầu như ống lưu ly. Nước vào trong ngực kế xuống đến bụng, cho đến đầu gối, không cho vào cánh tay, khiến nước trong lặng màu hoàn toàn như pha lê. Nếu cảm thấy nước ấm là chân quán.

           Tưởng này thành rồi, lại dạy quán các đốt của tứ chi thông suốt, nước đều đầy ở trong. Như đồ lưu ly dùng đựng đầy nước, dần dần rộng lớn, thấy đầy một giường, người ngoài cũng thấy. Nếu thấy nước này trong lạnh chính là chân thủy. Nếu thấy tướng khác không gọi là chân thật vào thủy quang tam-muội. Nước dần dần rộng lớn đầy trong một nhà, đều trong lặng như hơi lưu ly. Rồi dần dần rộng lớn đầy khắp ba ngàn đại thiên thế giới.

           Thấy việc này rồi nên ở chỗ vắng nhứt tâm ngồi yên, bảo các bạn đồng học đều giữ thanh tịnh, không cho ồn náo. Bấy giờ lại sẽ thấy ánh lửa màu tía trên nước nổi lên. Nên tự nhớ tưởng nước này từ nơi nào nổi lên, vì sao sẽ hết. Nếu nói ta là nước thì thân ta vô ngã, trước đã quán vô ngã, nay từ trong pháp không, nước từ đâu nổi lên. Lúc quán niệm như thế, tính của nước như hơi dần dần từ trên đỉnh đầu chìm mất, nước dần dần hết, chỉ còn da bọc thân. Tự thấy thân mình rất là mỏng manh, không có vật nào ví dụ được, như bó cỏ như vi trần. Lại thấy trong thân bỗng nhiên có lửa đốt thân cháy hết. Quán thân vô sở hữu, vĩnh viễn không có ngã. Ngã và chúng sanh tất cả đều không. Bấy giờ tâm ý của hành giả yên tịnh rất là vi tế, không có vật gí ví dụ được. Lúc tưởng này thành, gọi là quán chân vô ngã thứ 28 (bản chữ Hán là 27- người dịch). Cũng gọi là tưởng diệt thủy đại. Cũng gọi là hướng Tư-đà-hàm. Ngoài Hiền Thánh vi tế, pháp giới vi diệu ra khó có cảnh giới nào hơn, không thể nói hết. Lúc hành giả ngồi tu các tam-muội, khi được vô ngã tam-muội sẽ tự nhiên thấy Phật.

          Ðức Phật bảo A-nan: Nay ông khéo thọ trì cảnh giới vi diệu thuộc thủy đại chân thật này, vì tất cả chúng sanh vị lai phu diễn nói rộng.

          Bấy giờ A-nan nghe Ðức Phật nói vui vẻ phụng hành.

 

          XXIX. Ðức Phật bảo A-nan: Ðắc quán này rồi lại phải dạy phép quán thủy đại. Quán thủy đại này rất là vi tế, làm cho thủy đại này hợp với hỏa đại. Thấy thân như hơi, như bóng lưu ly. Quán bốn bên rún lửa đều nổi lên. Thấùy ánh lửa giống như mặt trời phản chiếu. Nếu thấy trên rún có hỏa quang nổi lên, hoặc từ trong mũi xuất, hoặc từ trong miệng xuất, thì lửa từ tai mắt tùy ý ra vào. Nếu thấy việc này thì thấy tất cả lửa từ lỗ chân lông xuất. Sau khi lửa xuất thì có nước màu lục liền theo sau lửa. Tự thấy trong thân trên nước dưới lửa, trên lửa dưới nước. Quán thân không thân.

         Lúc tưởng này thành, thấy nước lửa của thân không ấm không lạnh, thân tâm vắng lặng an trụ vô ngại. Ðây gọi là Tư-đà-hàm quả. Cũng gọi là cảnh giới thật tướng. Lúc thấy việc này xuất định nhập định thường không thấy thân. Lúc nhập định, người ngoài cũng thấy nước lửa từ lỗ chân lông ra, từ lỗ chân lông vào. Người tham dâm nhiều thấy lửa từ trên đỉnh đầu vào, từ thân căn ra, rồi sau đầy khắp thân thể. Nước cũng lại như vậy. Lại nên tự quán lửa trên đầu như cái lộng mây sáng màu vàng diêm-phù-đàn-na. Hoặc thấy dưới thân như hoa bảy báu. Trong tâm điềm tĩnh an ổân khoái lạc. Việc vui ở đời không có để làm ví dụ. Lúc xuất định thân cũng an lạc, khiến chúng sanh ở ngoài thấy mình thiền định tam-muôi an ổn với ánh sáng vàng màu vàng, ngay cả Ðế thích chư thiên cũng cung kính lễ bái, cùng bảo: Ðại đức! Nay ông khổ hết chắc chắn sẽ thành Tư-đà-hàm quả. Nghe rồi hoan hỷ, tu thân thiền định, tâm không bị trói buộc chướng ngại, an ổn khoái lạc, dạo chơi trong vô ngã tam-muội, các tam-muội vô nguyện, vô tác... đều hiện tiền.

         Cảnh giới vi diệu thiện thắng như thế, lúc hành giả ngồi, trong thiền định tự nhiên phân biệt. Nếu người độn căn, thì Ðại sư Thế tôn hiện ra trước nói pháp. Nhờ thấy Phật, nghe pháp hoan hỷ, đúng thời liền đắc Tư-đà-hàm đạo. Lại nên chí tâm tìm lại quán trước, quán qua hai mươi lăm lần khiến cực sáng tỏ.

           Ðức Phật bảo A-nan: Ông khéo thọ trì phép quán thủy đại thứ 29 này, cẩn thận chớ để quên mất. Ðắc quán này cũng gọi là Tư-đà-hàm, cũng gọi là khéo vãng lai. Nhờ nhân duyên căn lành đời trước nên gặp thiện tri thức hành pháp thanh tịnh. Ông sẽ đắc Tư-đà-hàm đạo này.

           Bấy giờ A-nan nghe Ðức Phật nói vui vẻ phụng hành.

 

           XXX. Ðức Phật bảo A-nan: Nếu có tỳ-kheo, tỳ-kgeo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di đắc quán thủy đại vi diệu này rồi, lại phải dạy phép quán hỏa đại an ổn vi diệu tối thắng kỳ đặc. Lúc thực hành quán này, tự thấy trong rún một sàng hỏa quang vi diệu như hoa sen. Sắc nó chói lọi như trăm ngàn vạn ức vàng diêm-phù-đàn-na hòa hợp.

           Thấy việc này rồi lại phải dạy quán lửa trong thân. Lúc quán nội hỏa tự thấy tâm hỏa thường có quang minh sáng hơn trăm ngàn vạn ức trăng sáng, ngọc thần. Tâm sáng thanh tịnh cũng lại như vậy. Xuất định nhập định như người cầm hỏa châu sáng đi, lo sợ người khác thấy, nhưng chỉ tự trong tâm sáng tỏ, như thế người khác không thấy. Dần dần sáng lớn thấy thân giống như gương pha lê sáng. Thấy tim cũng như trăng sáng, ngọc thần; lo người khác thấy, kỳ thật người khác không thấy việc này.

           Lúc nhập định nhờ tâm sáng nên thấy ba ngàn đại thiên thế giới thô và tế. Thấy Diêm-phù-đề, núi Tu-di và nước biển lớn đều rõ ràng. Lại thấy vua ngọc ma-ni trong nước biển lớn. Lửa của vua ngọc ma-ni phát ra các lửa.

            Thấy việc này rồi, bấy giờ thấy Phật  nói rộng chín định thứ tự. Chín định thứ tự là chín không trở ngại, tám giải thoát. Những quán  như thế không phải dự bị thọ nhận, mà Phật hiện tiền nên Phật tự nói (cho hành giả). Người lợi căn nghe Phật nói pháp trong chín vô ngại đạo, đúng lúc liền được A-la-hán đạo, siêu việt địa vị  A-na-hàm. Như vải sợi nhỏ trắng tốt dễ nhuộm màu. Nếu người độn căn lại phải dạy phép quán phong đại. Phép quán phong đại thấy tất cả gió rất là vi tế. Nhỏ đến nổi có thể dùng tâm nhãn thấy mà không thể nói hết. Gió lại xen với lửa, lửa lại xen với gió, nước vào trong lửa, gió vào trong nước, lửa vào trong gió. Gió, lửa và nước mỗi thứ qua lại lỗ chân lông như ý tự tại. Hoặc lại có gió mười sắc đầy đủ như mười ánh sáng báu, từ lỗ chân lông của thân xuất, từ trên đỉnh nhập, từ trong rún xuất, từ dưới chân nhập. Trong tất cả thân phần xuất, từ giữa chân mày nhập; từ giữa chân mày xuất, từ tất cả thân phần nhập. Ðủ loại vô lượng cảnh giới, Hiền Thánh quang minh, Hiền Thánh chủng tử. Các pháp Hiền Thánh như thế đều từ trong phong đại này khởi, từ trong phong đại này nhập. Ðây là quán phong đại. Với đầy đủ tướng mạo, cảnh giới vi diệu, chỉ Bậc A-la-hán mới phân biệt rộng được, chứ không thể nói hết. Lúc hành giả ngồi sẽ tự nhiên thấy. Nếu thấy việc này thì luyện các phiền não thành A-na-hàm. Quán phong đại này gọi là cảnh giới thứ 30 tương ứng với A-na-hàm.

           Ðức Phật bảo A-nan: Ông khéo thọ trì phép quán phong đại, tương ứng với A-na-hàm thuộc cảnh giới tối thắng, cẩn thận chớ để quên mất.

           Bấy giờ A-nan nghe Ðức Phật nói vui vẻ phụng hành.

 

Quyển 4

Ðời Diêu Tần, Ngài Tam tạng Pháp sư Cưu- ma-la-thập...dịch. 

       

Tôi nghe như vầy: Có một thời Ðức Phật ở rừng Kỳ-đà vườn Cấp Cô Ðộc nước Xá-vệ với 1.250 vị tỳ-kheo. Bấy giờ Tôn giả Ma-ha Ca-diếp có một đệ tử là con của Ni-kiền-tử khổ hạnh ở đại thành Vương Xá, tên là A-kỳ-đạt-đa. Người xin Tôn giả Ma-ha Ca-diếp xuất gia học đạo tu hành khổ hạnh đủ mười hai đầu-đà, trải qua năm năm đắc quả A-na-hàm, nhưng không thể tăng tiến thành A-la-hán. Ông từ chỗ ngồi đứng dậy đến chỗ Ngài Ca-diếp, sửa y phục ngay ngắn, chấp tay đảnh lễ Ngài Ma-ha Ca-diếp. Bạch rằng: Thưa Hòa thượng! Con theo Hòa thượng siêng tu tinh tấn như cứu lửa cháy đầu, đã trải qua năm năm nay được trụ ở quả A-na-hàm, thì thân tâm mệt mỏi, giải đãi không thể tăng tiến giải thoát vô thượng, cúi xin Hòa thượng vì con chỉ dạy.

          Bấy giờ Ngài Ma-ha Ca-diếp liền nhập tam-muội, quán tâm tỳ-kheo, biết tỳ-kheo này không hết các lậu, từ đời này mệnh chung sẽ sanh về cõi A-na-hàm thiên. Ngài từ tam-muội dậy bảo rằng: Này pháp tử! Nay ta tất cả thân tâm tự tại, nhập tự tại tam-muội, quán đời trước của ông thấy có nghiệp báo ở trên thân này, không có duyên được thành đạo La-hán.

           A-kỳ-đạt-đa nghe lời này rồi bi thiết khóc như mưa, bạch rằng: Thưa Hòa thượng, nay con không thích sanh thiên. Như người bịnh khốn khổ, cầu lực vô thường . Con sợ sanh tử cũng lại như vậy.

            Bấy giờ Ngài Ca-diếp bảo rằng: Này pháp tử! Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử. Cái ác sanh tử giống như lửa mạnh đốt tiêu tất cả, rất đáng chán ngán và lo sợ. Ta quán căn cơ của ông không được rõ lắm. Lại nữa, Thế tôn và chư tỳ-kheo ở rừng Kỳ-đà. Nay ta và ông đều đến chỗ Ðức Phật. Lúc đó vị tỳ-kheo ấy mặc y ôm bát theo sau Ngài Ca-diếp đến rừng Kỳ-đà, tới chỗ Ðức Phật , thì thấy Phật Thế tôn thân như núi vàng, ở trong đại chúng oai đức tự tại, đầy đủ 32 tướng và 80 vẻ đẹp. Thấy trò Ngài Ca-diếp lễ Phật, nhiễu Phật bảy vòng, rồi lui đứng một bên, Hồ quỳ chấp tay bạch rằng: Thưa Ðức Thế tôn, đây là đệ tử của con, tên là A-kỳ-đạt, theo sau con, tu mười hai điều đầu-đà, trụ sâu trong thiền định, đến A-na-hàm thì không tiến thêm được nữa để tát cạn biển phiền não. Cúi xin Ðức Thế tôn thương xót nói hạnh giải thoát thanh tịnh quán đảnh cam lồ rất sâu.

           Bấy giờ Ðức Thế tôn bảo A-kỳ-đạt rằng: Lành thay! Lành thay! A-kỳ-đạt, thầy ông hỏi một cách sắc sảo về việc này. Ta sẽ vì ông phân biệt giải nói. Hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ.

           Cách đây vô số đời, đời đó có Phật tên là Ðại Quang Minh Như lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Ðiều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật Thế tôn. Ðức Phật đó ra đời có ba loại thị hiện, giáo hóa chúng sanh, độ người tròn xong. Trong thời tượng pháp có một nước lớn tên Ba-la-nại, vua tên Phạm-ma-đạt-đa. Vua có thái tử tên là Nhẫn Nhục Khải, phát tâm kiên cố Vô thượng chánh đẳng chánh giác rất sâu, cầu Nhứt thiết chủng trí, tự thệ không sát sanh, tu mười thiện nghiệp, đối với lục ba-la-mật tâm không chán mỏi. Bấy giờ trong nước đó có một trưởng giả tên Nhựt Nguyệt AÂm, tự tại vô lượng, chỉ có một người con, bỗng ngộ bịnh nhiệt, phong đại nhập tâm, cuồng loạn mất trí. Tay cầm kiếm bén chạy vào đường hẻm sát hại chúng sanh. Vị trưởng giả đó thương con nên tay nâng lư hương đến ngoài bốn cửa thành, đốt hương rãi hoa, phát thệ nguyện lớn, nói rằng: Ở thế gian nếu có Thần tiên, Thánh nhân, thầy thuốc, thầy chú thuật, cứu được bịnh cuồng loạn của con tôi, thì tất cả sở hữu của tôi đều xin dâng hiến.

          Bấy giờ thái tử ra khỏi thành dạo chơi, thấy vị trưởng giả có tâm từ vì con cầu nguyện, lòng sinh hoan hỷ mà nói rằng: Trưởng giả này siêng tu tâm từ, phổ thí cho tất cả, mà con của trưởng giả gặp đại trọng bịnh. Nguyện chư vị thần tiên hãy khởi lòng từ bi đến nơi này cứu con của trưởng giả. Nói rồi chốc lát liền có một vị tiên nhân lớn từ núi Tuyết bay trên không mà đến, tên là Quang Vị, đến chỗ trưởng giả bảo trưởng giả rằng: Nạn của con ông do bịnh nhiệt mà khởi. Vì bịnh nhiệt nên quá giận dữ. Tâm mạch đều mở nên phong đại vào tim, do đó phát cuồng. Như bịnh này thì theo kinh tiên nói phong đại động, phải dùng máu tim của người thiện nam không sân bôi lên thân và phải ăn tủy của người lành bằng hạt đậu lớn thì mới trừ khỏi. Bấy giờ trưởng giả nghe vị tiên nhân nói, ở trên đường đảnh lễ thái tử bạch rằng: Vị địa thiên đại tiên nói bịnh của con tôi nên dùng máu và tủy xương của người từ tâm không sân mới có thể khỏi. Nay chính tôi muốn tự đâm thân mình xuất huyết cho con dùng, chẻ xương lấy tủy cho con ăn. Cúi xin thái tử cho phép việc này.

          Bấy giờ thái tử bảo rằng: Này trưởng giả, ta nghe Ðức Phật nói nếu có chúng sanh làm khổ não cha mẹ thì đọa đại địa ngục không có kỳ hạn xuất ly. Vì sao trưởng giả tự phá thân thể muốn cho con khỏi bịnh. Hãy nhẫn nại thêm chốc lát, ta sẽ vì trưởng giả làm phương tiện lớn.

          Bấy giờ trưởng giả nghe thái tử dạy tâm rất vui mừng, lễ chân thái tử rồi trở về nhà dùng voi đưa con mình đến cho thái tử. Thái tử thấy rồi dùng đề hồ rưới lên người ấy. Lúc đó vị tiên nhân bảo thái tử rằng: Ví như dùng thuốc này rưới lên vị nam tử này trải qua chín mươi ngày trọn không thể khỏi. Cần phải có máu của người từ tâm không sân. Bấy giờ thái tử tự suy nghĩ: Trừ thân mình ra, kỳ dư chúng sanh đều sẽ khởi sân. Nay ta làm việc này để cứu những bịnh khổ, và tế độ sinh mạng trong vòng sanh tử mà nguyện cầu Phật đạo. Ở đời vị lai nếu được thành Phật cũng sẽ bố thí pháp thân thường mệnh này. Thệ như thế rồi liền đâm thân lấy máu, bôi lên người con của vị trưởng giả đó, chẻ xương lấy tủy cho người ấy dùng. Con vị trưởng giả dùng rồi, bịnh được trừ khỏi. Lúc đó thái tử vì chẻ xương nên bất tỉnh quỵ xuống đất.

          Bấy giờ trời đất chấn động sáu cách. Ðế thích, Phạm thiên hộ đời cùng vô số thiên tử đều xuống đến chỗ thái tử, hỏi thái tử rằng: Nay ông dùng thân cứu bịnh chúng sanh, là muốn cầu việc gì? Cầu Ðế thích, Ma vương, Phạm thiên hay Chuyển luân Thánh vương, trong ba cõi muốn cầu việc gì?

          Bấy giờ thái tử bạch Ðế thích rằng: Nay sở cầu của tôi cũng không muốn sự tôn vinh hào quý trong ba cõi. Sở cầu của tôi chính là nguyện muốn thành Vô thượng chánh đẳng chánh giác.   Bấy giờ Ðế thích nghe lời này rồi, hỏi thái tử: Nay ông đâm mình (lấy máu) chẻ xương lấy tủy thân thể tàn tạ lảo đảo có hối hận không?

          Bấy giờ thái tử liền lập thệ nguyện: Tôi từ bắt đầu đâm thân cho đến nay, nếu không hối hận thì khiến thân thể tôi bình phục như cũ. Phát thệ này rồi thì thân thể bình phục như trước không khác.

          Bấy giờ Ðế thích thấy việc này rồi bạch thái tử rằng: Oai đức của thái tử kỳ đặc vô tỷ. Có chí cường đại ắt được thành Phật . Lúc thái tử thành Phật xin độ tôi trước. Lúc phát thệ này, thái tử thản nhiên nói kệ rằng:

 Nguyện tôi lúc thành Phật

Ðộ khắp trời và người

Thân tâm không quái ngại

Từ ái khắp tất cả

Cũng cứu độ các ông

Khiến các loài chúng sanh

Ðều trụ đại niết-bàn

Vĩnh viễn thọ khoái lạc.

          Thái tử nói kệ này rồi, chư thiên mưa hoa để cúng dường. Lại mưa vô lượng trăm ngàn trân bảo chứa đầy đạo tràng. Thái tử được trân bảo rồi đem bố thí. Bố thí không thôi, tu các ba-la-mật đều viên mãn, được thành Phật.

          Ðức Phật bảo Ngài Ca-diếp: Vua nước Ba-la-nại lúc đó nay là Tịnh Phạn, phụ vương của Ta. Trưởng giả Nguyệt AÂm lúc đó nay là ông, Ma-ha Ca-diếp. Con vị trưởng giả lúc đó nay là tỳ-kheo A-kỳ-đạt. Thái tử Nhẫn Nhục Khải lúc đó nay là Ta, Phật Thích-ca-mâu-ni. Ðế thích lúc đó nay là Xá-lợi-phất.

          Ðức Phật bảo Ngài Ca-diếp: Tỳ-kheo A-kỳ-đạt này trong quá khứ bị phong đại động nên phát cuồng không biết. Do đó nay nhập định tứ đại, ở trong định phong, tâm nghi không hành. Giả sử người này nhập định phong đại, quán tứ đại, đầu bể thành bảy phần, tim vỡ ra mà chết, thì nên dạy người này tu tập tâm từ.

          Bấy giờ đức Thế tôn bảo A-kỳ-đạt: Nay ông nên quán tất cả chúng sanh đều bị năm khổ(1.Sanh lão bịnh tử khổ; 2. Ái biệt ly khổ; 3. Oán tắng hội khổ; 4. Cầu bất đắc khổ; 5. Ngũ ấm xí thạnh khổ- người dịch) ép ngặt. Nay ông phải nên sanh tâm đại từ, muốn truất bỏ các khổ. Quán sắc, thọ, tưởng, hành, thức đều vô thường, khổ, không, vô, ngã.

          A-kỳ-đạt nghe Ðức Phật nói  điều này hoát nhiên ý được khai mở. Ðúng lúc liền được A-la-hán đạo, ba minh, sáu thông và đủ tám giải thoát. Liền ở trước Phật thân vọt lên không trung, làm mười tám thần biến. Làm mười tám thần biến rồi, từ không trung xuống đảnh lễ chân Phật, bạch rằng: Thưa Ðức Thế tôn, Như lai ngày nay vì con tuyên thuyết nhân duyên xưa kia và nói về tâm từ, diễn rộng pháp tứ đế. Con nhờ Phật lực, tức thời phá được nghiệp trói buộc trong ba cõi, thành A-la-hán. Cúi xin Ðức Thế tôn vì chúng sanh ác trược đời vị lai, bị ác nghiệp tội cũ sanh trong đời ngũ trược; chúng sanh như thế nếu tu hạnh đầu-đà, các thiền định đắc A-na-hàm như con mà tâm nghi đình trụ không hành thì nên tu pháp gì được lìa mé khổ?

         Ðức Phật bảo A-kỳ-đạt: Hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ. Nay Như lai nhân A-kỳ-đạt, rộng vì tất cả chúng sanh đời sau nói rộng tất cả cảnh giới có bao nhiêu sự vi tế nên tự phân biệt, ở khoảng giữa từ A-na-hàm đến A-la-hán. Nếu người bịnh phong nhiều, lúc nhập định phong đại, do phong đại nên vui mà phát bịnh cuồng, nên dạy quán Phật. Dạy quán Phật là dạy quán các pháp của Như lai như: Mười lực, bốn vô sở úy, mười tám pháp bất cộng, đại từ, đại bi, tam niệm xứ (còn gọi là tam niệm trụ. Là cách gọi tắt của tam chủng tứ niệm xứ- Từ điển Phật học Hán Việt, Phân viện nghiên cứu Phật học, Hà Nội, tr. 1317). Lúc quán những pháp này, tự nhiên được thấy vô lượng sắc thân tướng tốt vi tế huyền diệu. Hoặc có chư Phật bay trên không trung làm mười tám thần biến. Hoặc có chư Phật mỗi một tướng hảo hiện khắp vô lượng trăm ngàn biến hóa. Lúc thấy việc này nên khởi tâm cung kính cúng dường, tưởng ra hoa thơm rãi khắp chư Phật. Nhiên hậu lại  nên tự suy nghĩ rằng: Nay năm ấm bốn đại trong thân ta thảy đều sanh diệt vô thường không trụ. Các trói buộc sai sử cành nhánh và sai sử gốc đều vô thường. Ðiều ta niệm là niệm  mười lực, bốn vô sở úy, mười tám pháp bất cộng, đại từ, đại bi của Phật. Công đức trang nghiêm sắc thân như thế giống như bình báu chứa đầy bửu châu như ý. Do lực của châu báu phản chiếu trang sức bình này. Châu vô ngã sở bình cũng vô trụ. Chúng sanh và Phật cũng như thế, không có sắc tính và sắc tượng, giải thoát thanh tịnh. Vì sao nay ta quán xét  mười lực, lực biết chỗ phải trái, cho đến lực lậu tận, mười tám pháp bất cộng, đại từ, đại bi của Như lai? Vì sao lại thấy vô lượng sắc tượng? Tưởng này rồi thấy tượng chân kim đầy thế giới Sa-ba. Trong bốn oai nghi đi, đứng, ngồi, nằm đều thuyết pháp khổ, không, vô thường, vô ngã. Tuy thấy việc này lại nên khởi ý tưởng: Chư Phật này đều là giới định tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, mười lực, bốn vô sở úy, mười tám pháp bất cộng, đại từ, đại bi, tam niệm xứ. Công đức chung như thế hợp thành, vì sao có sắc? Lúc tưởng này nhứt nhứt quán kỹ, khiến thân tâm của tất cả Phật vô ngại cũng không sắc tưởng. Tự thấy thân mình như mây trong hư không. Quán năm thọ ấm không có các tính tướng, hoát nhiên vui vẻ. Lại thấy thân như hoa sen tụ tập, vòng quanh đầy khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Thấy chư Phật ngồi trên hoa của mình nói pháp không, vô ngã, vô nguyện, vô tác và mười bốn cảnh giới của Thánh Hiền rất sâu.

        Ðức Phật bảo A-kỳ-đạt: Nếu có hành giả thấy việc này rồi, nên dạy tâm từ. Dạy tâm từ là dạy quán địa ngục. Bấy giờ hành giả thấy mười tám địa ngục: xe lửa, lò than, núi dao, rừng kiếm,... Chúng sanh chịu khổ đều là cha mẹ, tông thân, quyến thuộc đời trước của mình, hoặc là thầy trò và các bậc thiện tri thức. Thấy từng người bị lửa mạnh địa ngục a-tỳ thiêu đốt. Hoặc lại có người lửa đốt từng đoạn, leo lên rừng kiếm, giẫm trên núi dao, ném vào vạc nước sôi, hoặc vào sông tro, hoặc uống nước đái, hoặc ăn hoàn sắt nóng, hoặc uống nước đồng sôi, hoặc nằm trên giường sắt nóng, hoặc ôm trụ đồng, hoặc vào rừng kiếm thân nát vô số. Hoặc vạch mắt ra, vô số ngục tốt cầm viên đồng nóng đặt trong vành mắt. Hoặc thấy ngạ quỷ thân hình to lớn vài mươi do tuần ăn lửa ăn than. Hoặc uống máu mủ biến thành nước đồng, thân thể cử động, lửa nổi dạy, đồng chảy theo chân. Hoặc thấy giữa núi Thiết Vi u ám, trong ấy đầy chúng sanh giống như la-sát lại ăn nuốt nhau. Thấy các dạ-xoa lỏa hình đen xấu, hai răng chỉa ra hướng lên, trên đầu lửa cháy, đầu như đầu trâu, ngay sừng mưa máu. Lại thấy hổ lang sư tử, các cầm thú ác ở thế gian lại ăn nuốt lẫn nhau. Lại thấy tất cả khổ của loài súc sanh. Hoặc thấy a-tu-la cắt đứt tai mũi, chịu các việc khổ. Lại thấy tất cả chúng sanh trong ba cõi bị dục sai sử đều chịu khổ não.                           

Quán cõi trời Vô Tưởng giống như điện như huyễn, không bao lâu sẽ đọa trong đại địa ngục. Nói tóm lại, hai mươi lăm hữu trong ba cõi, tất cả chúng sanh đều có nghiệp tam đồ khổ não. Bấy giờ hành giả quán thấy chúng sanh chịu khổ trong ba cõi, tâm sáng tỏ như quán trong bàn tay. Khởi sâu từ bi sinh lòng thương xót, thấy các chúng sanh do làm ác nghiệp xưa kia nên chịu ác báo. Thấy việc này rồi thương xót rơi lệ, muốn cứu hộ chúng sanh hết tâm lực mình mà không thể cứu tế được. Bấy giờ trong tâm rất thương xót chúng sanh, chán lo sanh tử, không nguyện ở lâu, tâm sinh kinh sợ, như thấy người cầm dao muốn lại hại mình. Thấy việc này rồi, lại khởi tâm từ bi muốn bạt khổ mà không làm sao được.

          Bấy giờ gành giả trong tự tư duy: Những chúng sanh này do vô minh, vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữn duyên sanh, sanh duyên lão tử, ưu bi khổ não.

          Bấy giờ hành giả trong tự tư duy: Vô minh này từ nơi nào lại, mà ấp yêu sinh sản đầy khắp ba cõi. Quán vô minh này mượn địa đại mà được trưởng thành, dựa vào phong đại mà dao động được, nhờ thế cứng của địa đại không hoại, hỏa đại soi sáng nuôi nấng, thủy đại tạo thành các tính. Như thế tứ đại hoạt động như sau: Tính của gió không trụ; tính của nước trôi chảy; tính của lửa nóng thịnh; tính của đất cứng chắc. Tính của tứ đại này hai trên hai dưới, các phương cũng hai. Phương đông thì thành tính sắc ấm; phương nam thì thành tính thọ ấm; phương tây thì thành tính tưởng ấm; phương bắc thì thành tính hành ấm; phương trên thì thành tính thức ấm. Năm thọ ấm này dựa vào vô minh, có từ xúc thọ sanh. Nhân duyên thích xúc chạm, sinh các cảm             thọ. Nhân duyên thọ, sanh ái thủ hữu. Có nhân duyên nên sanh ở ba cõi. Chín mươi tám sử và các kết nghiệp trói buộc chúng sanh không có kỳ hạn xuất ly. Như vậy các nghiệp từ vô minh mà có, dựa vào si và ái mà sinh. Chỗ lưu xuất của bổn tướng vô minh này từ đâu mà sinh rồi truyền khắp ba cõi, trói buộc các chúng sanh một cách tai ác. Nay ta nên quán thức tướng vô minh từ nơi nào khởi. Vô minh này là địa đại, là lìa địa đại, là hợp với địa đại, là từ địa đại sanh, là từ địa đại diệt? Tính của địa đại vốn không, xét ra địa đại là vô chủ. Vì sao vô minh khởi tưởng si ái, duyên hành mà có. Nhưng chư hành này và ái thủ hữu là từ phong khởi, là từ thủy sanh , bị hỏa chiếu. Quán kỹ nhứt nhứt bốn đại như thế, thì thấy những đại này thật vô tính tướng, đồng như thực tế (lý thể của chơn như ). Vì sao lôi kéo chúng sanh, trói buộc ở ba cõi, bị nhiều phiền não thiêu đốt. Tư duy như thế rồi, sợ sệt sanh tử, lo âu sanh về cõi trời vui thú. Quán các thiên cung như mộng như huyễn, như mốc như điện, như vang của tiếng gọi. Thấy khắp chúng sanh ba cõi giống như cái vòng chịu khổ không cùng.

          Thấy việc này rồi lo rầu, không vui. Thế gian như dòng nước chảy nhanh, nên cầu đạo niết-bàn và cầu giải thoát trong từng sát-na một. Bấy giờ lại nên dạy đếm hơi thở: Từ một đến mười, từ mười đến trăm, từ trăm đến ngàn. Theo dõi hơi thở nhiều ít rồi nhiếp khí, làm cho an trụ. Bấy giờ tự thấy thân mình như trăm ngàn vạn ức hoa sen, tất cả héo giòn. Gió bốn mặt thổi lại, làm cho hoa héo biến thành lưu ly, như đồ lưu ly. Tự thấy tim mình như cây hoa lớn từ mé kim cương phương dưới cho đến ba cõi. Trên đỉnh có bốn quả. Quả vi diệu như ngọc như ý, có sáu loại ánh sáng chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Lúc hành giả thấy việc này thì thấy bờ đất kim cang cho đến đỉnh của ba cõi phương trên. Trong ấy đầy chư Phật, các đại đệ tử và quyến thuộc vây quanh. Hoặc có chư Phật bay trên hư không, trên thân xuất nước, dưới thân xuất lửa; dưới thân xuất nước, trên thân xuất lửa; đông nổi lên tây chìm xuống; tây nổi lên đông chìm xuống; nam nổi lên bắc chìm xuống; bắc nổi lên nam chìm xuống; giữa nổi lên bìa chìm xuống; bìa nổi lên giữa chìm xuống. Hoặc hiện thân lớn đầy trong hư không. Lớn lại hiện nhỏ bằng hạt cải, biến hiện tự tại tùy ý vô ngại. Hoặc thấy chư Thinh văn nhập bốn đại định, trên thân lửa tụ. Những ngọn lửa ngay giống như ống đồng đầy nước nhiều màu. Lại thấy thân mình như người đó nhập định. Bấy giờ nên dạy hành giả mà bảo rằng: Chỗ thấy của ông tuy là nhiều Phật và chư Thanh văn, nay ông nên quán chư Thế tôn này là thân vô tướng, là đại giải thoát, là quả vô học. Phải nên khéo nhiếp tâm ông và đếm hơi thở như trước. Phép đếm hơi thở này có mười sáu khoa, không nói hết được.

          Bấy giờ hành giả đã đếm hơi thở rồi, tâm ý điềm đạm vắng lặng không thấy. Lại nên dạy quán hoa sen ở tim giống như cây hoa. Trên cây có quả như ngọc ma-ni, hiện sáu loại ánh sáng, ánh sáng rực rỡ. Từ đỉnh của tam giới chiếu xuống mé đất kim cang phương dưới. Thấy cây hoa ở tim héo rủ sắp chết, nhưng sâu vô lượng.

          Bấy giờ nên quán pháp thân của chư Phật. Pháp thân của chư Phật do sắc thân mà có. Sắc thân như bình vàng. Pháp thân như ngọc ma-ni. Phải nên quán kỹ mười lực, bốn vô sở úy, mười tám pháp bất cộng, đại từ, đại bi, vô ngại giải thoát, thần trí vô lượng, cảnh giới tuyệt diệu, chẳng phải chỗ mắt thấy, chẳng phải chỗ tâm nhớ, tất cả các pháp vô lai vô khứ, không trụ không hoại, đồng như lý thể của chân như, kẻ phàm phu ngu si bị giặc lớn già chết truy đuổi, vọng thấy điên đảo. Vì điên đảo nên đọa lạc vào tam đồ, rơi vào trong sông ái dục, bị dòng nước cuốn trôi chìm đắm trong ba cõi. Nay ta vì sao đồng kẻ phàm phu làm việc vọng tưởng thấy Phật. Ðại Hòa thượng của ta là Ðức Phật Thích-ca-mâu-ni xưa kia đem đầu mắt tủy não, quốc thành vợ con bố thí, chịu trăm ngàn khổ hạnh để cầu pháp giải thoát. Nay đã vượt qua sanh tử, trụ ở đại niết-bàn tịch diệt rốt ráo, không sinh trở lại, như Phật pháp quá khứ trụ chỗ thường lạc. Cũng không khứ lai hiện tại, các thân tâm trí bất động điềm đạm vô vi. Trí tuệ làm thành tựu thân, nên có tưởng nào, vì sao biến động. Nay ta thấy từ vọng tưởng hiện, thuộc các nhân duyên, nên là pháp của sắc tướng điên đảo. Lúc tư duy như thế, tất cả chư Phật và chư Hiền Thánh vắng bặt ẩn thân, không hiện trở lại, chỉ còn một Ðức Phật có bốn đệ tử lớn làm thị giả.

          Bấy giờ Ðức Thích-ca-mâu-ni Thế tôn vì hành giả lại nói pháp quán tứ đại thanh tịnh. Bảo rằng: Này pháp tử, chư Hiền Thánh ba đời trong quá khứ lúc quán hành này, tự nhiên đều quán pháp quán phong đại. Quán phong đại là trước quán trong thân, từ cây hoa nơi tim sanh một làn gió nhẹ. Gió nhẹ như thế dần dần tăng trưởng biến khắp thân thể. Ðầy thân thể rồi từ lỗ chân lông xuất, đầy trong một phòng. Ðầy một phòng rồi thấy gió nhẹ này đầy trong một sân. Ðầy một sân rồi, lại thấy dần dần đầy một trăm mẫu đất. Ðầy một trăm mẫu rồi lại tăng rộng thêm đầy một do tuần. Ðầy một do tuân rồi đầy hai do tuần. Ðầy hai do tuần rồi đầy ba do tuần. Ðầy ba do tuần rồi đầy bốn do tuần. Ðầy bốn do tuần rồi đầy năm do tuần. Ðầy năm do tuần rồi như thế dần dần rộng lớn đầy mười do tuần. Gió nhẹ mới động dần dần rộng lớn đầy khắp ba ngàn đại thiên thế giới, trên đến đỉnh tam giới, dưới đến mé kim cương, biến khắp các nơi này rồi trở lại từ đỉnh đầu vào, khiến cây ở tim tất cả hoa lá dần dần héo rụng. Tự thấy thân mình như gương pha lê trong ngoài chiếu suốt.

          Bấy giờ lại nên dạy quán thủy đại. Quán thủy đại là trước quán cây hoa ở tim trong thân chảy ngay ra một dòng nước nhỏ, như khí lưu ly. Dần dần rộng thêm giống như mây sắc trắng đầy khắp trong thân. Ðầy trong thân rồi, từ sáu căn chảy ra, trên đỉnh vọt ra, nhiễu thân bảy vòng như mây trắng bay. Mưa nhỏ từng giọt. Nước mềm mại đầy cả một giường. Ðầy một giường rồi dần dần rộng lớn đầy trong một phòng. Ðầy một phòng rồi đầy trong một sân. Ðầy một sân rồi đầy trong một thành. Ðầy một thành rồi đầy 1.000 mẫu đất. Ðầy 1.000 mẫu rồi đầy 10.000 mẫu. Ðầy 10.000 mẫu rồi đầy  một do tuần. Sắc nước thật trắng như ánh sáng lưu ly trắng. Hơi nước vi tế hơn cảnh giới nhãn căn của phàm phu, dần dần rộng lớn đầy hai do tuần. Ðầy hai do tuần rồi đầy ba do tuần. Ðầy ba do tuần rồi đầy bốn do tuần. Ðầy bốn do tuần rồi đầy năm do tuần. Ðầy năm do tuần rồi dần dần rộng lớn đầy mười do tuần. Ðầy mười do tuần rồi dần dần rộng lớn đầy trăm do tuần. Ðầy trăm do tuần rồi dần dần rộng lớn đầy một Diêm-phù-đề. Ðầy một Diêm-phù-đề rồi dần dần rộng lớn đầy khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Trên đỉnh đến tam giới, dưới đến mé kim cương. Hơi nước như thế như mây trở lại từ đỉnh đầu vào.

          Thấy việc này rồi lại dạy quán hỏa đại. Quán hỏa đại là tự quán cây hoa tim trong thân, giữa các hoa lá có lửa rất nhỏ giống như ánh sáng vàng, ngay từ tim xuất, tràn khắp trong thân, xuất ra từ các lỗ chân lông, dần dần rộng lớn đầy khắp một giường. Ðầy một giường rồi đầy một phòng . Ðầy một phòng rồi dần dần rộng lớn đầy trong một sân. Ðầy một sân rồi đầy trong một thành. Ðầy một thành rồi đầy 1.000 mẫu đất. Ðầy 1.000 mẫu đất rồi đầy 10.000 mẫu đất. Ðầy 10.000 mẫu đất rồi đầy một do tuần. Sắc lửa biến thành trắng như ánh sáng chân châu, lại trắng đẹp mà núi tuyết pha lê không sánh được. Ánh sáng hồng chiếu lẫn lộn làm thành họa phẩm, dần dần rộng lớn đầy hai do tuần. Ðầy hai do tuần rồi đầy ba do tuần. Ðầy ba do tuần rồi đầy bốn do tuần. Ðầy bốn do tuần rồi đầy năm do tuần. Ðầy năm do tuần rồi dần dần rộng lớn đầy trăm do tuần. Ðầy trăm do tuần rồi dần dần rộng lớn đầy Diêm-phù-đề. Ðầy Diêm-phù-đề rồi dần dần rộng lớn đầy khắp ba ngàn đại thiên thế giới, trên đến đỉnh của tam giới, dưới đến mé kim cang, rồi trở về từ đỉnh đầu vào.

          Thấy việc này rồi lại nên dạy quán địa đại. Quán địa đại là tự thấy các hoa của cây ở tim trong thân dần dần rộng lớn, như mây kim cang đầy khắp trong thân. Ðầy trong thân rồi lại đầy một giường. Ðầy một giường rồi đầy khắp một phòng. Ðầy một phòng rồi đầy khắp một sân. Ðầy một sân rồi đầy khắp một thành. Ðầy một thành rồi dần dần rộng lớn đầy khắp 1.000 mẫu. Ðầy 1.000 mẫu rồi đầy khắp 10.000 mẫu. Ðầy 10.000 mẫu rồi đầy một do tuần. Ðầy một do tuần rồi sắc biến thành xanh dần dần rộng lớn, đầy khắp hai do tuần. Ðầy hai do tuần rồi đầy ba do tuần. Ðầy ba do tuần rồi đầy bốn do tuần. Ðầy bốn do tuần rồi đầy năm do tuần. Ðầy năm do tuần rồi dần dần rộng lớn đầy trăm do tuần. Ðầy trăm do tuần rồi dần dần rộng lớn đầy Diêm-phù-đề. Ðầy Diêm-phù-đề rồi dần dần rộng lớn đầy khắp ba ngàn đại thiên thế giới, trên đến đỉnh của tam giới, dưới đến mé kim cang, rồi trờ về từ đỉnh đầu vào.

          Thấy việc này rồi lại nên dạy trở về quán địa đại. Quán địa đại này lớn như mây kim cang, khó có thể vỡ nát. Vì sao diệt được? Lúc quán này thì thấy Phật Thế tôn Thích-ca-mâu-ni ngồi tòa kim cang và chư tôn đệ tử quyến thuộc 500 vị, ngồi trước hành giả, khác miệng đồng âm tán thán diệt đế. Nghe lời này rồi, nên quán địa đại từ nhân duyên khởi, được vô minh bảo trì. Nhưng vô minh vô tính, si ái vô chủ; nhân duyên hư ngụy tạm gọi là vô minh. Ái, thủ, hữu... đều thuộc tướng này. Lúc tư duy như thế, thấy ngay những cây hoa trong tim mình dần dần lửa nổi dậy đốt mây kim cang. Mây ở giữa những lá cây và lửa hợp thành một thể đầy khắp trong thân. Ðầy trong thân rồi đất lửa đều động đầy khắp một giường. Ðầy một giường rồi đầy khắp một phòng. Ðầy một phòng rồi đầy khắp một sân. Ðầy một sân rồi đầy khắp một thành. Ðầy một thành rồi dần dần rộng lớn đầy khắp 1.000 mẫu. Ðầy 1.000 mẫu rồi đầy khắp 10.000 mẫu. Ðầy 10.000 mẫu rồi đầy một do tuần. Ðầy một do tuần rồi đầy hai do tuần. Ðầy hai do tuần rồi đầy ba do tuần. Ðầy ba do tuần rồi đầy bốn do tuần. Ðầy bốn do tuần rồi đầy năm do tuần. Ðầy năm do tuần rồi dần dần rộng lớn đầy trăm do tuần . Ðầy trăm do tuần rồi dần dần rộng lớn đầy khắp Diêm-phù-đề. Ðịa đại và hỏa đại tính khác nhau, lại cổ động nhau, đầy khắp ba ngàn đại thiên thế giới, trên đến đỉnh tam giới, dưới đến mé kim cang, rồi trở về từ đỉnh đầu vào.

          Thấy việc này rồi lại nên dạy quán phong đại. Quán phong đại là tự quán giữa cây hoa ở tim trong thân phát ra gió sắc tía. Thủy đại theo vào diệt sắc gió này, đồng thành sắc của nước. Gió động, nước vọt đầy khắp trong thân, dần dần rộng lớn đầy khắp một giường. Ðầy một giường rồi đầy trong một phòng. Ðầy một phòng rồi đầy khắp một sân. Ðầy một sân rồi đầy khắp một thành. Ðầy một thành rồi dần dần rộng lớn đầy khắp một do tuần. Ðầy một do tuần rồi, hai tính gió nước khác nhau, gió thổi nước này như bọt lưu ly, sắc chói sáng, lại cổ động nhau, đầy khắp hai do tuần. Ðầy hai do tuần rồi đầy ba do tuần. Ðầy ba do tuần rồi đầy bốn do tuần. Ðầy bốn do tuần rồi đầy năm do tuần. Ðầy năm do tuần rồi dần dần rộng lớn đầy trăm do tuần. Ðầy trăm do tuần rồi dần dần rộng lớn đầy khắp Diêm-phù-đề. Ðầy Diêm-phù-đề rồi dần dần rộng lớn đầy khắp ba ngàn đại thiên thế giới, trên đến đỉnh tam giới, dưới đến mé kim cang.

          Thấy việc này rồi tự thấy thân mình, tất cả các lỗ chân lông của thân lửa nổi dậy. Ánh lửa nóng này đầy khắp ba cõi. Ra ngoài tam giới như hoa chân kim. Trên hoa có quả, quả lá nối nhau. Trong ánh sáng, quả đó diễn nói pháp độ sanh tử: Tứ đế và 12 nhân duyên. Lại thấy tất cả nước trong thân nổi lên. Nước ấm thấm đượm từ lỗ chân lông chảy ra trùm khắp tam giới. Sắc nước phát ra ánh sáng chiếu đỉnh tam giới rồi vào trong quả có ánh lửa. Lại thấy trong thân, tất cả gió nổi dậy, đầy khắp trong thân. Từ lỗ chân lông phát ra, dần dần rộng lón, gió cuốn nhanh đầy khắp ba cõi, hóa thành mây vàng, vào trong quả có ánh lửa. Lại có hơi đất rất mỏng nhẹ đầy khắp tứ đại.

          Thấy việc này rồi lại nên dạy quán kỹ năm ấm. Quán sắc ấm thì thấy sắc ấm này dựa vào địa đại mà có. Nhưng địa đại bất định, từ vô minh sanh. Vô minh do duyên vọng kiến gọi là sắc. Quán sắc tướng này hư ngụy không thật, cũng không chỗ sinh, mượn nhân duyên mà hiện, nhưng nhân duyên tính không, sắc ấm cũng vậy. Thọ tưởng hành thức tính tướng đều không, trong không chắc thật. Quán năm ấm này thật không nhân duyên cũng không thọ hữu. Như thế tứ đại vì sao tăng trưởng đầy khắp ba cõi. Lúc tư duy như vậy thì thấy tất cả lửa từ tất cả lỗ chân lông phát ra đầy khắp ba cõi. Trở về từ tất cả lỗ chân lông mà vào. Lại thấy tất cả địa đại giống như mây kim cang, từ tất cả lỗ chân lông xuất sinh, đầy khắp ba cõi. Trở về từ tất cả lỗ chân lông mà vào. Lại thấy thủy đại cũng như vi trần, từ tất cả lỗ chân lông chảy ra đầy khắp ba cõi. Trở về từ tất cả lỗ chân lông mà vào. Lại thấy phong đại thế yếu nhược, từ tất cả lỗ chân lông phát ra đầy khắp ba cõi. Trở về từ tất cả lỗ chân lông mà vào. Như thế tứ đại từ lỗ chân lông xuất và từ lỗ chân lông nhập, tráo trở qua lại tám trăm lần.  Thấy việc này rồi thì đếm hơi thở như trước rồi bế khí mà trụ. Qua bảy ngày, bấy giờ tự nhiên thấy địa đại này dần dần trống không. Thấy dưới một giường dần dần trống không. Thấy một phòng dần dần trống không. Thấy một phòng rồi thấy một sân đất dần dần trống không. Thấy một sân rồi  thấy một thành đất dần dần trống không. Thấy một thành rồi thấy 1.000 mẫu đất dần dần trống không. Thấy 1.000 mẫu rồi thấy 10.000 mẫu đất dần dần trống không. Thấy 10.000 mẫu rồi thấy một do tuần đất dần dần trống không. Thấy một do tuần rồi thấy hai do tuần đất dần dần trống không. Thấy hai do tuần rồi thấy ba do tuần đất dần dần trống không. Thấy ba do tuần rồi thấy bốn do tuần đất dần dần trống không. Thấy bốn do tuần rồi thấy năm do tuần đất dần dần trống không. Thấy năm do tuần rồi cho đến  thấy mười do tuần đất dần dần trống không. Thấy mười do tuần rồi cho đến thấy một trăm do tuần đất dần dần trống không. Thấy một trăm do tuần rồi cho đến thấy 8.000 do tuần đất của Diêm-phù-đề dần dần trống không. Thấy cõi Diêm-phù-đề rồi thấy 10.000 do tuần đất Phất-bà-đề dần dần trống không. Thấy cõi Phất-bà-đề rồi thấy 30.000 do tuần đất cõi Cù-gia-ni dần dần trống không. Thấy cõi Cù-gia-ni rồi thấy 40.000 do tuần đất châu Uất-đan-việt dần dần trống không. Thấy châu Uất-đan-việt rồi thấy núi Tu-di, nước bốn biển lớn, núi sông vách đá trong bốn thiên hạ, tất cả có bao nhiêu vật cứng chắc đều dần dần trống không.

          Thấy bốn châu thiên hạ rồi tim bèn rộng lớn đầy khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Các vật cứng chắc như đại địa, núi sông, vách đá tất cả đều trống không, tim không có chỗ nương tựa.

          Bấy giờ tự nhiên thấy ngoài núi kim cang có mười bốn bánh xe kim cang. Những bánh xe kim cang tự nhiên từ dưới vọt lên lại rung chạm nhau đến trước hành giả. Bấy giờ ngay các hoa đẹp của cây ở tim tự nhiên lửa nổi dậy đốt các hoa lá, bốn quả trên cây rơi trên đỉnh đầu hành giả. Từ đỉnh mà vào trụ trong tim. Bấy giờ tim này hốt nhiên sáng tỏ, thấy chướng việc ngoài. Lại có sáu con voi sắc toàn đen giẫm nát đại địa và uống nước. Gió thổi voi chết. Tai voi phát ra lửa đốt voi hết cả. Rắn độc tứ đại trườn ngay lên cây. Thấy có một người giống đại lực sĩ nhổ cây lớn này dưới đến mé kim cang, trên đến đỉnh ba cõi, khiến cây rung động. Bốn quả minh châu trong tim hành giả lại phát ra lửa lớn đốt cây héo hết. Lúc đó cây lớn tan ra như bụi nhỏ. Hành giả thấy rồi. Nay ta quán thủy, hỏa, phong cùng với thủy đại (?), tất cả vô thường phút chốc biến diệt. Nên tự quán tứ đại trong thân mình, lửa nổi lên vô cùng, đất nước gió cũng lại như vậy. Tướng vô minh này trống không, không có sở hữu, giả ngụy điên đảo giống như hơi nước nóng, thuộc về tam giới, duyên ở si ái. Ba mươi ba pháp ức niệm sanh. Chín trăm chín mươi tướng niệm thô chuyển theo thứ tự. Chín mươi tám cành nhánh chủng tử kiết sử che khắp ba cõi . Người bị những trói buộc đó thọ sanh vô số. Hoặc đọa địa ngục lửa dữ thiêu thân. Hoặc làm ngạ quỷ uống nước đồng sôi, ăn hoàn sắt nóng. Trong trăm ngàn đời không nghe cơm nước. Hoặc làm súc sanh: lạc đà, lừa, heo, chó số không thể biết. Trong loài người chịu khổ lắm nạn không phải một. Khổ não như thế quá nhiều đều do si và ái. Nay quán tính của si và ái không có sở hữu.

          Lúc tư duy như thế, Ðức Phật Thích-ca-mâu-ni phóng hào quang sắc vàng và chư Thinh văn quyến thuộc vây quanh bảo hành giả rằng: Nay ông biết không? Tướng của sắc rỗng không vắng lặng. Thọ tưởng hành thức cũng lại như vậy. Nay ông phải nên quán kỹ không, vô tướng, vô tác, vô nguyện tam-muội. Không tam-muội là quán sắc vô tính và tất cả các pháp rỗng không không có sở hữu. Những không như thế là không tam-muội. Vô nguyện tam-muội là quán tính niết-bàn tịch diệt vô tướng, quán tướng sanh tử đều đồng như lý thể của chơn như. Lúc quán này, không cầu sanh tử, không vui niết-bàn. Quán sanh tử bổn tế không tịch. Quán niết-bàn tính tướng đều đồng vào không, không có hòa hợp. Ðó gọi là vô nguyện tam-muội. Vô tác tam-muội là không thấy tâm, không thấy thân và các oai nghi có chỗ tu tập tạo tác. Không thấy niết-bàn có khởi tính tướng. Chỉ thấy diệt đế thông đạt không, không có sở hữu.

          Bấy giờ hành giả nghe Ðức Phật Thế tôn nói không, vô tướng, vô nguyện tam-muội này, thân tâm vắng lặng, dạo chơi ở tam không môn. Giống như trong khoảng chàng tráng sĩ co duỗi cánh tay, liền được siệu việt chín mươi ức kiếp trói buộc trong vòng sanh tử hun hút, thành A-la-hán, không còn thọ thân sau. Phạm hạnh đã lập, biết đúng đạo chân thật. hoát nhiên ý khai mở, không còn tàn dư tập khí. Lậu hết tuệ thông tự nhiên mà được. Ngoài ra, ngũ thông phải nhờ tu mà đắc. Nghĩa lục thông nói rộng như luận tạng.

          Bấy giờ Ðức Thế tôn vì A-kỳ-đạt nói về tướng không của Hiền Thánh, ứng với cảnh giới của tâm, phân biệt mười tướng nhứt thiết nhập này rồi, yên lặng an ổn nhập vô tránh tam-muội, phóng hào quang nhiều sắc chiếu khắp thế giới. Lúc đó 250 vị tỳ-kheo trong hội tâm ý khai mở thành A-la-hán. Năm mươi ưu-bà-tắc phá vỡ hai mươi ức kiếp trói buộc sâu xa thành Tu-đà-hoàn. Trời, người đại chúng nghe Ðức Phật nói đều rất vui mừng.

          Bấy giờ A-nan từ chỗ ngồi đứng dậy bạch Ðức Phật rằng: Thưa Thế tôn, Như lai đầu tiên vì Ca-hy-la Nan-đà nói môn bất tịnh, vì tỳ-kheo Thiền Nan-đề nói pháp đếm hơi thở, vì A-kỳ-đạt nói pháp quán tứ đại. Rất nhiều pháp môn vi diệu như thế thọ trì bằng cách nào? Nên dùng tên gì để chỉ bảo cho đời sau?

          Ðức Phật bảo A-nan: Kinh này gọi là Thiền pháp bí yếu. Cũng gọi là môn quán xương trắng. Cũng gọi là chín tưởng theo thứ tự. Cũng gọi là pháp quán tạp tưởng. Cũng gọi là A-na-bát-na phương tiện. Cũng gọi là Tưởng bốn quả theo thứ tự. Cũng gọi là Phân biệt cảnh giới. Hãy thọ trì như thế, cẩn thận chớ để quên mất.

          Ðức Phật bảo A-nan: Sau khi Ta diệt độ, nếu có tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, thức- xoa- ma-na-ni, sa-di, sa-di-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di muốn học Phật pháp ba đời, đoạn giống sanh tử, qua sông phiền não, tát cạn biển sanh tử, diệt chủng tử ái, dứt các dòng sai sử, chán năm dục lạc, vui niết-bàn, thì nên học pháp quán này. Công đức của pháp quán này như núi Tu-di, lưu xuất nhiều ánh sáng chiếu bốn châu thiên hạ. Người hành pháp quán này đủ quả sa-môn cũng lại như vậy.

          Ðức Phật bảo A-nan: Sau khi Phật diệt độ, nếu có tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di muốn học pháp này, thì nên lìa bốn thứ ác. Thế nào là bốn? Một là tịnh trì cấm giới, oai nghi không phạm. Ðối với giới của năm chúng, nếu có phạm thì nên chí tâm sám hối thanh tịnh. Giới thanh tịnh rồi, gọi là trang nghiêm phạm hạnh. Hai là xa  chỗ ồn náo, ở một mình nơi nhàn tịnh, buộc niệm một chỗ, vui pháp ít nói, tu hành mười hai hạnh đầu-đà rất sâu, tâm không chán mỏi, như cứu lửa cháy đầu. Ba là quét dọn bùn đất ở tháp, bố thí thẻ nhành dương sạch và làm các việc khổ nhọc để trừ tội chướng. Bốn là ngày đêm sáu thời thường ngồi không nằm, không thích ngủ nghỉ, thân dựa nghiêng, thường thích ở trong gò mả, dưới gốc cây, chỗ thanh vắng. Ăn như nai ăn, chết như nai chết. Nếu có bốn chúng hành bốn pháp này, nên biết người này là người khổ hạnh. Khổ hạnh như thế không lâu ắt được bốn quả sa-môn.

          Ðức Phật bảo A-nan: Nếu có bốn chúng tu pháp buộc niệm cho đến quán thấy tướng xương trắng ít phần của một đốt ngón chân hay ngón tay, khiến cực sáng tỏ; và nếu thấy một ngón, nếu thấy một móng, tất cả các xương trắng, thì nên biết người này nhờ tâm mãnh lợi, nên sau khi mệnh chung chắc chắn được sanh lên cõi Ðâu-suất-đà thiên. Người này diệt được ba ác đạo và tất cả khổ hoạn. Tuy chưa giải thoát nhưng không đọa ác đạo. Nên biết người này công đức không mất, đã lìa khỏi được tam đồ khổ nạn. Huống là hành giả thấy đầy đủ những người xương trắng. Hành giả thấy người xương trắng này tuy chưa được công đức vô lậu giải thoát, nhưng nên biết người này đã khỏi tất cả hoạn nạn của tam đồ bát nạn khổ ách. Nên biết người này đời đời sinh ra đượcthấy Phật. Ở đời vị lai sẽ gặp Ðức Phật Di-lặc trong hội Long hoa đầu, được nghe pháp trước tiên và chứng đạo quả giải thoát.

          Ðức Phật bảo A-nan: Nếu có tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di ở trong Phật pháp, vì lợi dưỡng nên tham cầu không chán, vì thích tiếng tăm mà giả ngụy, làm ác, thật không thể ngồi thiền, vì thân khẩu phóng dật, hành hạnh phóng dật, tham lợi dưỡng nên tự nói ngồi thiền. Lúc tỳ-kheo phạm lỗi thâu-lan-giá như thế, không nói ra không tự cải hối, chẳng bao lâu thì phạm 13 tăng tàn. Nếu qua một ngày đến hai ngày, nên biết tỳ-kheo này là giặc, là la-sát, đứng đầu hàng xôi thịt trong trời người, chắc chắn đọa ác đạo, phạm đại trong tội. Nếu tỳ-kheo-ni ma quái tà mị, muốn cầu lợi dưỡng như mèo tìm chuột, tham cầu không chán, thì thật không thể ngồi thiền. Tự nói ngồi thiền mà thân khẩu phóng dật, hành hạnh phóng dật, vì lợi dưỡng nên tự nói ngồi thiền. Lúc tỳ-kheo-ni phạm lỗi thâu-lan-giá như thế mà không nói ra, không tự cải hối thì chẳng bao lâu liền phạm 13 tăng tàn. Nếu qua một ngày đến hai ngày, nên biết tỳ-kheo-ni này là giặc, là la-sát, đứng đầu hàng xôi thịt trong trời người, ắt đọa ác đạo, phạm đại trọng tội. Nếu tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni thật sự không thấy xương trắng, tự nói thấy xương trắng, cho đến a-na-bát-na, thì tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni này lừa dối mê hoặc chư thiên long thần... dối gạt người đời. Bọn người ác này là loại Ba Tuần, vì vọng ngữ nên tự nói rằng ta đắc quán bất tịnh cho đến đảnh pháp. Người vọng ngữ này sau khi mệnh chung chắc chắn đọa vào địa ngục a-tỳ mau hơn mưa đá. Thọ mệnh một kiếp rồi từ địa ngục ra, đọa trong loài ngạ quỷ tám ngàn năm ăn hoàn sắt nóng. Từ loài ngạ quỷ ra, đọa vào trong loài súc sanh, lúc sống luôn mang chở nặng, khi chết lại bị lột da. Trải qua năm trăm đời trở lại sanh trong loài người lấy đui điếc câm ngọng tàn tật trăm bịnh làm y phục. Trải qua sự khổ cực như thế không thể nói hết. Nếu ưu-bà-tắc thật sự không ngồi thiền tự nói ngồi thiền, thật không phạm hạnh tự nói phạm hạnh, thì ưu-ba-tắc này phạm tội thất ý, bất tịnh, làm việc bại hoại mà không sửa đổi, sẽ bị đọa lạc vào hàng chiên-đà-la hèn hạ, làm bạn với điều ác, là giống hủ bại, không sanh mầm lành. Vì tham lợi dưỡng nên cầu nhiều không chán, từ một ngày cho đến năm ngày phạm tội đại vọng ngữ. Người đại ác này bị ma Ba Tuần sai sử, là chiên-đà-la, là người giết thịt, là la-sát đồng loại, chắc chắn sẽ đọa trong ba đường ác. Lúc vị ưu-bà-tắc này sắp mệnh chung, thì mười tám địa ngục xe lửa, lò than... biến hóa ra các việc ác đồng thời nghinh tiếp, chắc chắn sẽ đọa trong ba ác thú, không có nghi ngờ. Nếu ưu-ba-tắc thật sự không đắc quán bất tịnh cho đến noãn pháp mà ở trong đại chúng khởi tăng thượng mạn, rêu rao như sau: Ta được quán bất tịnh cho đến noãn pháp; nên biết ưu-bà-tắc này là giặc trong trời người, lừa dối thiên long bát bộ ở đời. Sau khi ưu-bà-tắc này mệnh chung, chắc chắn sẽ đọa vào địa ngục a-tỳ mau hơn mưa đá. Mãn một đại kiếp, tuổi thọ ở địa ngục hết, sanh trong loài ngạ quỷ trải qua tám ngàn năm ăn hoàn sắt nóng. Từ ngạ quỷ ra đọa vào trong loài súc sanh, lúc sống luôn mang chở nặng, khi chết lại bị lột da. Trải qua năm trăm thân lại sanh vào loài người lấy đui điếc câm ngọng tàn tật trăm bịnh làm y phục. Trải qua sự cực khổ như thế không thể nói hết. Nếu ưu-ba-di làm hiển lộ sự hay lạ để mê hoặc quần chúng, thật chẳng ngồi thiền bảo là ngồi thiền, thì ưu-bà-di này bị tội thất ý, kết cấu với bất tịnh bại hoại, đọa lạc vào hàng bất tịnh, làm chiên-đà-la hèn hạ. Ưu-bà-di này làm bạn với điều ác, là quyến thuộc của ma, chắc chắn sẽ đọa trong ba ác thú. Lúc ưu-ba-di này có lỗi mà không nói ra, không tự cải hối, chẳng bao lâu từ một ngày cho đến năm ngày, ưu-ba-di này tham cầu không chán, thật chẳng phạm hạnh tự nói phạm hạnh, thật chẳng ngồi thiền tự nói ngồi thiền, đấy là người đại ác, chắc chắn sẽ đọa trong ba ác thú, tùy nghiệp thọ sanh. Nếu ưu-ba-di thật không đắc quán bất tịnh cho đến noãn pháp mà ở trong đại chúng tuyên bố như thế, khởi tăng thượng mạn, tự nói ta được quán bất tịnh cho đến noãn pháp, thì ưu-ba-di này là giặc trong hàng trời người. Sau khi mệnh chung chắc chắn sẽ đọa vào địa ngục a-tỳ nhanh hơn mưa đá. Mãn một đại kiếp, thọ mạng trong địa ngục hết, sanh trong loài ngạ quỷ, trải qua tám ngàn năm ăn hoàn sắt nóng. Từ ngạ quỷ ra đọa vào trong loài súc sanh, lúc còn sống luôn mang chở nặng, khi chết lại bị lột da. Trải qua năm trăm thân, trở lại sanh trong loài người lấy đui điếc câm ngọng tàn tật trăm bịnh làm y phục. Trải qua sự cực khổ như thế không thể nói hết.

          Ðức Phật bảo A-nan: Nếu tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di buộc niệm trụ ý, tâm không tán loạn, ngồi ngay chánh thọ, trụ ý một nơi đóng các giác quan, thì người này nhờ an tâm ghi nhớ định lực, nên tuy không có cảnh giới xả thân, nhưng đời sau sanh về cõi trời Ðâu-suất, gặp Ngài Di-lặc. Cùng hạ sanh xuống cõi Diêm-phù-đề với Bồ-tát Di-lặc. Trong hội Long hoa đầu tiên, được nghe pháp trước hết, ngộ đạo giải thoát.

          Lại nữa, này A-nan: Sau khi Phật diệt độ, trong đời ác trược, nếu có tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-ba-tắc, ưu-ba-di thật tu phạm hạnh, hành mười hai hạnh đầu-đà để trang nghiêm thân, tâm hành niệm định, tu quán xương trắng, quán bất tịnh vào cảnh giới sâu, thì tâm nhãn sáng sắc, thông đạt pháp thiền. Tứ chúng như thế làm cho Phật pháp tăng trưởng, làm cho pháp bất diệt, nên thân khẩu ý cẩn mật. Giống như có người thân tâm bị bịnh, thầy thuốc giỏi bảo nên uống đề hồ. Bấy giờ người bịnh đến vị quốc vương cầu xin đề hồ. Nhà vua thương xót liền lấy đề hồ ra cho. Nhân đó dạy người bịnh cách uống đề hồ, nên ở chỗ kín trong nhà không có gió bụi mà lấy uống. Uống rồi ngậm miệng, điều khí tứ đại, chớ để mất sự chừng mực. Nếu tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni uống thuốc cam lồ quán đảnh này- chỉ trừ thầy giáo thọ biết pháp _ thì không được càn bậy đến người khác nói cho họ biết. Nếu đến nói với người khác thì mất cảnh giới đó. Cũng phạm 13 tội Tăng tàn. Nếu những người bạch y muốn hành thiền định, đắc 5 thần thông còn không nên đến nói với người khác rằng ta được thần thông, chú thuật của tiên; tất cả nên giữ kín, huống là người xuất gia thọ giới cụ túc. Nếu đắc quán bất tịnh cho đến noãn pháp, không được vọng động đến nói cho người khác biết. Nếu đến nói với người khác tức cảnh giới đó bị mất, và khiến cho nhiều chúng sanh ở trong Phật pháp sanh tâm nghi hoặc. Do đó, nay Ta ở trong chúng này dạy các tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, nếu đắc quán bất tịnh cho đến noãn pháp thì nên kín đáo tu hành khiến tâm sáng tỏ mãnh lợi, chỉ đến nói với người trí, giáo thọ sư, không được truyền rộng, nói với người khác. Nếu nói với người khác vì tâm lợi dưỡng, ngay lúc đó liền phạm 13 tội tăng tàn. Lúc có lỗi mà tâm kông sám hối, không hổ thẹn, cũng phạm tội nặng như đã nói trên.

          Lại nữa, này A-nan! Sau khi Phật diệt độ, lúc không có Phật , bốn bộ đệ tử cầu giải thoát, được quán bất tịnh thì nên cất kỹ giấu kín, chớ cho người khác biết. Ví như có người nghèo cùng cô độc sinh ra đời ác trược, thuộc vua vô đạo. Người nghèo cùng đó đào đất tìm nước, do nhân duyên đời trước bỗng gặp kho tàng được nhiều trân bảo. Vì sợ vua ác nên giấu kín của báu này không cho người khác biết. Chỉ để chỗ kín, lấy trân bảo này để cung cấp cho vợ con, riêng thọ khoái lạc. Sau khi Phật diệt độ, bốn bộ đệ tử được thiền lạc cũng lại như thế, nên giấu kín nó, không được nói rộng. Nếu nói rộng thì phạm đại trọng tội.

          Lại nữa, này A-nan! Ví như vị trưởng giả chỉ có một đứa con trai bị đại trong bịnh, râu mày rụng hết. Bấy giờ trong tâm trưởng giả suy nghĩ: Nay ta họa suy chỉ có một đứa con trai này mà gặp trong bịnh, nên tìm cầu lương y nơi nào. Nói lời này rồi xuất ra nhiều của báu tìm hỏi lương y. Nhờ phước đời trước bỗng trưởng giả gặp một vị thầy thuốc biết nhiều phương dược. Trưởng gia thưa rằng: Cúi xin đại sư khởi lòng đại từ bi, tôi có một đứa con bị bịnh lâu rồi, cúi xin đại sư cứu chửa bịnh này. Nay trong nhà tôi có nhiều của báu giống như Tỳ-sa-môn Thiên vương ở phương Bắc, nếu con tôi được khỏi, chỉ trừ thân tôi, tất cả xin dâng lên, không dám trái nghịch. Vị lương y đó bảo trưởng giả rằng: Nay ông phải xây bảy lớp nhà tối, khiến cực sâu kín, rồi mới có thể cho con ông uống thuốc. Uống thuốc này rồi không được thấy người, không nói cho người khác biết. Qua bốn trăm ngày đứa trẻ mới khỏi.

          Ðức Phật bảo A-nan: Sau khi Phật diệt độ, bốn bộ đệ tử của Phật, nếu tu thiền định cầu giải thoát, như người bịnh nặng theo lời vị lương y dạy; nên ở chỗ yên tịnh: hoặc trong gò mả, hoặc dưới rừng cây, hoặc chỗ a-luyện-nhã, tu hành thậm thâm đạo của các Hiền Thánh, thân khẩu nên cẩn mật. Ở trong nội tâm tu bốn phạm hạnh, tu bốn niệm xứ, tu bốn chánh cần, tu bốn như ý túc, tu năm căn, tu năm lực, tu bảy giác đạo, tu tám Thánh đạo phần, tu bốn thiền, tu bốn vô lượng tâm, vào rất sâu môn vô lượng không tam-muội, cho đến được sáu thần thông, đủ loại công đức thắng diệu như thế. Chỉ nên nhất tâm kín đáo mà hành trì. Cẩn thận chớ hư vọng ở trước nhiều người nói được pháp hơn người. Nếu nói được pháp hơn người như đã nói trên, thì chắc chắn sẽ đọa đại ngục a-tỳ.

          Ðức Phật bảo A-nan: Sau khi Ta bát-niết-bàn, 100 năm đầu, người hành pháp quán bất tịnh này ở Diêm-phù-đề để nhiếp thủ phóng dật thì nên quán tứ đế. Trong một ngày tu quán vô thường được giải thoát, như Ta ở đời không khác. 200 năm sau, ở Diêm-phù-đề này bốn bộ đệ tử tu quán vô thường thì một phần đệ tử trong hai phần được đạo giải thoát. Lúc 300 năm, bốn bộ đệ tử tu quán vô thường thì một phần đệ tử trong bốn phần được đạo giải thoát. Lúc 400 năm, bốn bộ đệ tử tu quán vô thường thì một phần đệ tử trong năm phần được đạo giải thoát. Lúc 500 năm Ta niết-bàn, bốn bộ đệ tử tu quán vô thường thì một phần đệ tử trong mười phần được đạo giải thoát. Lúc 600 năm, bốn bộ đệ tử tu quán vô thường thì một phần đệ tử trong 100 phần được đạo giải thoát. Lúc 700 năm, bốn bộ đệ tử tu quán vô thường, thì một phần đệ tử trong 1.000 phần được đạo giải thoát. Lúc 800 năm, bốn bộ đệ tử tu quán vô thường thì một phần đệ tử trong 10.000 phần được đạo giải thoát. Lúc 900 năm, bốn bộ đệ tử tu quán vô thường thì một phần đệ tử trong ngàn vạn phần được đạo giải thoát. Lúc 1.000 năm, bốn bộ đệ tử tu quán vô thường, thì 10 người, 100 người trong ức phần được đạo giải thoát. Qua 1.000 năm rồi, pháp quán vô thường này tuy còn lưu hành trong cõi Diêm-phù-đề nhưng ức ức ngàn vạn chúng đệ tử tu quán vô thường mà chỉ có một hai người được đạo giải thoát. 1.500 năm sau, nếu có tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di tán thán tuyên thuyết pháp quán vô thường, khổ, không, vô ngã, thì có nhiều chúng sanh ôm lòng ghen ghét, hoặc lấy dao chặt, hoặc lấy ngói đá ném, đánh. Những người đó mắng rằng: Ðồ người ngu si nơi nào ở đời có vô thường mà quán khổ, không, vô ngã. Thân người trắng sạch vô lượng, vì sao nói là bất tịnh. Ngươi là người đại ác, nên hợp lại đuổi đi. Lúc hiện tượng này xuất hiện thì trong trăm ngàn người không có một người tu quán vô thường. Lúc hiện tượng này xuất hiện thì pháp tràng băng hoại, tuệ nhựt chìm mất. Tất cả chúng sanh mù, không có mắt. Phật Thích-ca-mâu-ni tuy có đệ tử mặc cà-sa mà như cờ nơi đầu cột gỗ tự nhiên biến trắng. Các tỳ-kheo-ni giống như dâm nữ, tự bán nữ sắc để tự nuôi thân. Các ưu-bà-tắc như chiên-đà-la sát sanh vô độ. Các ưu-ba-di tà dâm vô đạo lừa dối trăm điều. Lúc hiện tượng này xuất hiện, thì chánh pháp Vô thượng của Thích-ca-mâu-ni vĩnh viễn chìm mất không còn.

          Ðức Phật bảo A-nan: Ông hãy giữ gìn lời Phật, vì bốn bộ đệ tử đời vị lai mà nên tuyên nói phân biệt diệu nghĩa rộng rãi, cẩn thận chớ để quên mất.

          Lại nữa, này A-nan! Ông hãy vì các chúng sanh đời sau mà nên tuyên bố lời này: Ðại pháp của Như lai không lâu sẽ phải chìm mất. Các ông ở trong Phật pháp phải siêng năng tinh tấn, nên quán các pháp khổ, không, vô thường, vô ngã.

          Lúc Ðức Phật nói lời này có 8.000 Thiên tử hiểu rõ vô thường xa trần lìa cấu, được pháp nhãn thanh tịnh, 500 tỳ-kheo liền ở trên chỗ ngồi không thọ các pháp, lậu hoặc dứt hết, tâm ý mở rộng thành A-la-hán.

          Bấy giờ trưởng giả A-kỳ-đạt cùng 1.250 vị tỳ-kheo, chư thiên long thần, nghe Ðức Phật nói môn quán vô thường này, tâm khai ý giải thảy đều thông đạt, hiểu khổ, không, vô thường, rồi đảnh lễ chân Phật vui vẻ phụng hành./.

 Dịch xong chiều ngày 26-07 năm Bính Tý (1996)


chuaphogiac


Các tin đã đưa ngày :