Kính lễ chư tôn đức Tăng-Ni, chào mừng Quý Phật Tử thiện nam tín nữ ghé thăm trang Phổ Môn Thị Hiện. Kính chúc mọi người thảy điều được Phúc Lạc Bình An trong sự chở che của mười phương Tam Bảo cùng đức Quán Thế Âm Bồ-tát.

HỖ TRỢ
Yahoo Skype
  
   Truy cập :  
 Đang Online :  
Cao Tăng

Thần Tăng Thiên Trúc

Thứ bảy, 07/09/2013, 16:14 GMT+7

Thần Tăng Thiên Trúc

Mục Lục.

Lời nói đầu

1. Tôn giả Nhiếp Ma Ðằng (Kasyapa-Matanga, Ca Diếp Ma Ðằng)

2. Tôn giả Trúc Pháp Lan (Dharmaraksa)

3. Ngài An Thế Cao (Parthamasiris)

Ý nghĩa của kinh An Ban Thủ Ý

4. Ngài Chi Lâu Ca Sấm (Lokaraksa), nhà dịch giả kinh điển Ðại Thừa

5. Ngài Ðàm Kha Ca La (Dharmakala)

6. Ngài Khương Tăng Khải

7. Ngài Ðàm Ðế hay Ðàm Vô Ðế (Dharmasatya)

8. Ngài Khương Tăng Hội

9. Chi Cương Lương Tiếp

10. Ma Ha Kỳ Vực (Mahajivaka)

11. Chi Khiêm

12. Ngài Duy Ðề Nan (Vighna)

13. Ngài Bạch Thi Lê Mật Ða La (Srimitra)

14. Ngài Trúc Pháp Hộ

15. Ngài Phật Ðồ Trừng, hưng long Phật pháp

Những vị đại đệ tử của ngài Phật Ðồ Trừng

A/ Ngài Phật Ðiều

B/ Ngài Ðạo An, lập nền tảng vững chắc cho Phật giáo Trung Quốc

I. Ngài Huệ Viễn. Sơ tổ tông Tịnh Ðộ

II. Huệ Trì

III. Huệ Vinh

IV. Huệ Sung

V. Ðàm Dực

VI. Pháp Ngộ

VII. Ðàm Huy

VIII. Ðạo Lập

C. Ngài Trúc Pháp Nhã

D. Ngài Tăng Lãng tại núi Thái Sơn, hưng khởi Phật giáo ở Sơn Ðông

16. Ngài Tăng Già Ðề Bà (Sanghadeva)

17. Ngài Ðàm Ma Nan Ðề (Dharmanandi)

18. Ngài Ti Ma La Xoa (Vimalaksas)

19. Ngài Phật Ðà Da Xá (Buddhayasas)

20. Ngài Cưu Ma La Thập (Kumarajiva)

Môn đệ của ngài Cưu Ma La Thập

A. Ngài Ðạo Sanh, thuyết đốn ngộ

B. Thầy Tăng Triệu, nhà lý giải tư tưởng Bát Nhã

C. Tăng Duệ, Giáo Tướng Hình Thể Phân Tích Nguyên Thủy

D. Thầy Ðạo Dung

E. Thầy Ðàm Ảnh

G. Thầy Ðạo Hằng và Ðạo Tiêu

21. Ngài Phật Ðà Bạt Ðà La (Buddhadhadra)

22. Ngài Phất Nhã Ða La ( Punyatara)

23. Ngài Ðàm Ma Lưu Chi (Dharmaruci)

24. Ngài Ðàm Vô Sấm (Dharmaraksa)

25. Ngài Tăng Già Bạt Trừng (Sanghabhata, dịch là Chúng Hiện)

26. Ngài Ðàm Ma Da Xá (Dharmayasas)

27. Ngài Cầu Na Bạt Ma (Gunavarman)

28. Ngài Cầu Na Bạt Ðà La (Gunabhadra)

29. Ngài Tăng Già Bạt Ma (Sanghavarman)

30. Ngài Ðàm Ma Mật Ða (Pháp Tú)

31. Ngài Phật Ðà La (Buddhajiva, dịch là Giác Thọ)

32. Ngài Phù Ðà Bạt Ma (Buddhavarman, dịch là Giác Khải)

33. Ngài Cương Lương Da Xá (Kalayasas)

34. Ngài Tăng Già Ða La (Chúng Tế)

35. Ngài Mạn Ðà La Tiên (Mandra, dịch là Hoằng Nhược)

36. Ngài Tu Bồ Ðề (Subhuti, dịch là Thiện Kiết)

37. Ngài Tăng Già Bà La (Sanghabhadra)

38. Ngài Nguyệt Bà Thủ Na (Udasunya, dịch là Cao Không)

39. Ngài Ðàm Ma Lưu Chi (Dharmaruci)

40. Bồ Ðề Lưu Chi (Bodhiruci)

41. Tam tạng pháp sư Lặc Na Ma Ðề (Ratnamati, dịch là Bảo Hỷ)

42. Tam tạng pháp sư Phật Ðà Phiến Ða

43. Ngài Cù Ðàm Bát Nhã Lưu Chi

44. Ngài Chân Ðế (Paramatha)

45. Ngài Na Liên Ðề Lê Da Xá (Narendrayasas, dịch là Tôn Xưng)

46. Ngài Xà Na Quật Ða (Jnanagunta)

47. Ngài Ðạt Ma Cấp Ða (Dharmagupta, dịch là Pháp Mật)

48. Ngài Xà Ðề Tư Na

49. Ngài Ba La Pha Ca La Mật Ða La (Prabhakaramitra)

50. Tam tạng pháp sư Na Ðề (Punyopaya, dịch là Phước Sanh)

51. Ngài Nhã Na Bạt Ðà La (Jnanabhadra, dịch là Trí Hiền)

52. Ngài Phật Ðà Ða La (Buddhatrata, dịch là Giác Cứu)

53. Ngài Phật Ðà Ba Lợi (Buddhapali, dịch là Giác Hộ)

54. Ngài Già Phạm Ðạt Ma (Bhagavaddharma, dịch là Tôn Pháp)

55. Ngài Di Ðà Sơn (Mitrasanata, dịch là Tịch Hữu)

56. Ngài A Di Chân Na (Ratnacinta, dịch là Bảo Tư Duy)

57. Ngài A Ðịa Cù Ða (Atigupta, dịch là Vô Cực Cao)

58. Ngài Bát Lật Mật Ðế (Pramiti, dịch là Cực Lượng)

59. Ngài Thật Xoa Nan Ðà (Siksamanda, dịch là Học Hỷ)

60. Ngài Ðịa Bà Ha La (Divakara, dịch là Nhật Chiếu)

61. Ngài Ðề Vân Bát Nhã (Devaprajna, dịch là Thiên Trí)

62. Ngài Thi La Ðạt Ma (Siladharma, dịch là Giới Pháp)

63. Ngài Bạt Nhật La Bồ Ðề (Vajrabodhi, dịch là Kim Cang Trí)

64. Tam tạng pháp sư A Mục Khư Bạt Chiết La (Amonghavajra, dịch là Bất Không Kim Cang)

65. Tam tạng pháp sư Thú Bà Yết La Tăng Ha (Subhakarasimha, dịch là Thiện Vô Úy)

66. Ngài Bát Lặt Nhã (Trí Huệ)

67. Ngài Liên Hoa

68. Ngài Mâu Ni Thất Lợi (Munisri, dịch là Tịch Mặc)

69. Ngài Mãn Nguyệt (Purnasoma)

***

Lời nói đầu

Trên thế gian, ngôi Tam Bảo là cao quý nhất. Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni là Phật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đà là Tăng Bảo. Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni đã nhập Niết Bàn ngót trên hai ngàn năm trăm năm. Ngọn đuốc chánh pháp của Pháp Bảo sở dĩ vẫn còn được hoằng truyền mãi cho đến ngày nay, tất cả đều do công lao sâu dầy của chư hiền thánh tăng trải qua bao đời. Với tinh thần đại vô úy, xả thân vì Phật pháp, từ Ấn Ðộ và những nước ở Tây Vực, các ngài vượt những rặng núi Tuyết Sơn và Thông Lĩnh, hay cỡi sóng ba đào trên biển Nam Hải để truyền bá và xiển dương giáo lý của Phật đà về phương đông, mà không quản ngại bao gian nan nguy hiểm.

Trên bước đường hoằng pháp lợi sanh, tùy theo căn cơ của mỗi chúng sanh và tùy theo nhu cầu của mỗi quốc độ, từ ba nghiệp thân khẩu ý thanh tịnh (tức là thân giáo, khẩu giáo, ý giáo) các ngài uyển chuyển dùng các phương tiện thiện xảo để hóa độ chúng sanh. Từ ý nghiệp thanh tịnh, các ngài tự tu trì ba môn học vô lậu giới định huệ (tức là ý giáo), mà phát xuất ra bằng bốn oai nghi của thân nghiệp thanh tịnh (tức là thân giáo), và dùng ngôn từ lành thiện của khẩu nghiệp thanh tịnh (tức là khẩu giáo), mà hóa độ chúng sanh; nghĩa là các ngài thường dùng oai nghi cử chỉ bình dị, dùng hạnh tu đầu đà, dùng lời lẽ thiện xảo, dùng thần thông diệu dụng, dùng trí huệ Bát Nhã để diễn giảng và phiên dịch kinh điển, khiến cho chúng sanh ở mọi nơi đều được thấm nhuần mưa pháp mà ly khổ đắc lạc, bước trên con đường giải thoát.

Ân đức cao cả vĩ đại của các ngài như thế đó, chính là động lực thúc đẩy chúng tôi phát tâm soạn dịch tiểu sử của các ngài, hầu mong hậu thế mãi mãi nhớ đến ân Tăng Bảo thâm sâu vô cùng cực, mà noi gương theo các ngài để tiến tu trên đường đạo nghiệp, thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi.

Trong quyển này, chúng tôi chỉ soạn dịch về cuộc đời của các vị thật có công lao to lớn trong việc truyền bá và phiên dịch kinh điển kể từ đời nhà Hậu Hán đến cuối đời Ðường, tức từ thế kỷ thứ nhất đến thế kỷ thứ mười, vì đó là thời kỳ quan trọng nhất của công cuộc phiên dịch kinh điển, cùng sự hình thành và phát triển của các tông phái tại Trung Quốc, như Tam Luận tông, Thành Thật tông, Niết Bàn tông, Tịnh Ðộ tông, Hoa Nghiêm tông, Luật tông, Thiền tông, Pháp Tướng tông, Chơn Ngôn tông, Câu Xá tông, v.v... Những tông phái này đã ảnh hưởng sâu đậm đến Phật giáo Việt Nam.

Quyển Thần Tăng Thiên Trúc này đến tay với quý độc giả phần lớn là nhờ sự cộng tác nhiệt tình của đạo hữu Nguyễn Văn Sỹ.

Kế đến, chúng con thành tâm kính lễ cầu nguyện mười phương ba đời chư Phật, chư Bồ Tát, chư hiền thánh Tăng, ân sư đại lão hòa thượng Tuyên Hóa, đồng hiển oai linh chứng minh cho quyển sách này. Chúng con cũng xin hồi hướng tất cả công đức để nguyện cầu cho Việt Nam và Thế Giới mãi được thanh bình; Phật giáo Việt Nam và Thế Giới mãi được trường tồn; tất cả chúng sanh trong pháp giới đồng sớm chứng quả Bồ Ðề.

Sau cùng chúng con chân thành ngưỡng mong các bậc cao minh từ bi xá tội và chỉ dạy những lỗi lầm sơ sót trong quyển sách này.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Chùa Vạn Phật Thánh Thành, Mỹ Quốc.

Tỳ Kheo Thích Hằng Ðạt

Mùa xuân năm 1998.

 

 


Thần Tăng Thiên Trúc

 

1. Tôn giả Nhiếp Ma Ðằng (Kasyapa-Matanga, Ca Diếp Ma Ðằng)

Tôn Giả vốn là người trung Thiên Trúc (trung Ấn Ðộ). Cử chỉ hằng ngày, thần thái tùy thời đều lộ xuất thần, cung cách cao quý hòa nhã. Ðối với kinh điển đại thừa và tiểu thừa, Tôn Giả đều thường quán thông dung hội triệt để. Chí nguyện suốt đời, là luôn đi chu du các nước để hóa độ chúng nhân.

Lần nọ, đang giảng kinh Kim Quang Minh tại một tiểu quốc ở Thiên Trúc, chợt có quân của nước ngoài xâm lăng tiến vào cung thành, nên Tôn Giả phải ngừng giảng kinh. Tôn Giả suy nghĩ:

- Kinh thường dạy rằng nếu thường giảng giải kinh điển Phật pháp, thì sẽ được địa thần bảo hộ, và khiến nơi cư trú đều được an lạc. Hiện tại, chiến tranh đang bộc phát. Thế thì có tương phản với việc ở trên không?

Suy nghĩ xong, Tôn Giả quên cả sự hiểm nguy, tự thân mau chóng đến hai nước, kêu gọi họ bỏ vũ khí và ngưng đánh nhau. Do oai đức của Tôn Giả, cuối cùng hai nước đều bỏ qua sự hiềm khích, và bắt tay giảng hòa. Nhờ vậy mà danh của Tôn Giả vang xa.

Hán Minh Ðế (58-75), trong niên hiệu Vĩnh Bình, vào một đêm nọ, mộng thấy một điềm lạ kỳ. Trong giấc mộng, ông thấy một vị thân vàng, cao hơn một trượng sáu, lưng phóng ánh sáng mặt trời mặt trăng, bay trên không trung, đến trước cung điện. Hôm sau, Hán Minh Ðế hội tất cả quần thần để bàn đoán mộng đó, xem coi có ý nghĩa gì. Thái sử Phó Nghị, bốc chiêm tinh rồi tấu trình:

- Thời Chu Chiêu Vương, thời tiết có khí tượng lạ kỳ, xuất hiện những tia sáng năm màu xoay vần trên sao Thái Vi. Ðương thời quan thái sử Tô Do phụng tấu:' Nhất định có thánh nhân, giáng sanh tại tây phương, nên mới xuất hiện điềm cảm ứng tốt lành trên trời như vầy. Một ngàn năm sau, giáo pháp của thánh nhân đó, sẽ được truyền sang Trung Thổ.'

Nghe như thế, Chu Chiêu Vương lập tức hạ lệnh khắc việc này trên đá, để làm bia truyền mãi mãi. Giấc mộng đêm hôm qua của Ðiện Hạ, nếu tính theo thời gian, thì hiển nhiên có sự liên quan mật thiết. Hiện tại, Thần lại nghe rằng ở Tây Vức có thần Phật. Ðiện Hạ mộng thấy người vàng, thì nhất định đó là đức Phật vậy.

Nghe qua, Hán Minh Ðế bèn sai đoàn sứ giả mười tám người như quan Lang Trung, Tần Cảnh, Thái Hâm, Bác Sĩ, Vương Tuân v.v... do Ðậu Cố (cháu ngoại của Ðậu Dung, đệ nhất công thần kiến quốc của nhà Hậu Hán) dẫn đầu qua nước Ðại Nhục Chi ở Thiên Trúc, để tầm cầu Phật pháp. Trên đường cầu pháp, gặp được Tôn Giả, họ bèn thỉnh cầu qua Trung Thổ hoằng hóa. Tôn Giả vốn có đại nguyện hoằng pháp, nên chấp thuận lời thỉnh cầu. Trải qua bao gian nan hiểm trở trên đường lộ, cuối cùng Tôn Giả cùng với đoàn sứ giả đồng dùng ngựa trắng chở kinh, trở về Lạc dương. Nhân đó, nhà vua cho lập chùa Bạch Mã tại Lạc Thành, phía tây Ủng Quan, để làm nơi cư trú cho Tôn Giả. Trung Thổ có tăng sĩ khởi đầu từ đó.

Truyện cao tăng bảo rằng ngôi chùa này vốn tên là Chiêu Ðề, sau đổi thành Bạch Mã:

- Tương truyền các quốc vương ngoại quốc thường đem quân đến phá các ngôi chùa, nhưng chỉ có chùa Chiêu Ðề là chưa bị phá hoại. Ðêm nọ, có một con ngựa trắng, đi nhiễu quanh tháp của chùa mà kêu rống bi ai. Nghe tiếng này, Khải Vương bèn ngưng hủy phá các chùa chiền, nên từ đó đổi tên chùa Chiêu Ðề thành chùa Bạch Mã. Việc lập danh của các ngôi chùa, thường dựa theo những điềm phép tắc.

Trên đây nói về các quốc vương ngoại quốc, đó chính là các quốc vương Ngũ Hồ làm loạn Trung Nguyên, nhưng danh tánh khó mà biết chính xác. (Pháp Bổn Nội Truyện có kể đến chùa Bạch Mã và Hưng Thánh).

Hán Pháp Bổn Nội Truyện bảo rằng sau khi tôn giả Ca Diếp Ma Ðằng đến Lạc Dương, các đạo sĩ ở mười tám ngọn núi tại Ngũ Nhạc dâng sớ lên vua Hán Minh Ðế, vào mồng một tháng giêng, niên hiệu Vĩnh Bình thứ 14. Họ muốn cùng tăng sĩ Phật giáo tranh tài lý luận và pháp thuật. Hán Minh Ðế bèn sai quan Tống Tường, truyền dụ cho hai phái Thích và Ðạo, tranh tài pháp thuật tại chùa Bạch Mã. Trử Thiện Tín ở Nam Nhạc, Lưu Chánh Niệm ở Hoa Nhạc, Hoàn Văn Ðộ ở Hằng Nhạc, Tiêu Ðắc Tâm ở Ðại Nhạc, Lữ Huệ Thông ở Sùng Nhạc, cùng với 690 đạo sĩ, lập ba đàn tràng ở phía ngoài chùa: Ðàn phía tây, họ bày biện phù lục thư; đàn chính giữa, họ bày biện các kinh thư của hoàng lão; đàn phía đông, họ bày la liệt các thức ăn đồ vật để cầu thỉnh chư thần. Chư tăng Phật giáo an trí xá lợi của Phật và kinh tượng ở bên vệ đường phía tây. Sắp đặt đâu đấy xong xuôi, các đạo sĩ bèn đọc chú thuật, làm cháy đàn tràng mà không đốt được kinh giáo thánh điển. Họ càng gắng sức bao nhiêu thì lửa càng mau tắt bấy nhiêu. Xá lợi của Phật phóng năm ánh hào quang, bay vần trên không trung. Tôn giả Ca Diếp Ma Ðằng bay lên hư không hiện bao thần biến. Người xem đều khâm phục. Lưu Huệ Thông và các đạo sĩ khác, cùng phụ nữ trong nội cung khoảng 230 người, đồng phát nguyện xuất gia. Triều đình bèn ra lịnh cho xây mười ngôi chùa; dùng bảy ngôi làm chùa của tăng chúng, và ba ngôi làm chùa của ni chúng. Chùa của tăng chúng được kiến lập bên ngoài thành Lạc Duơng. Chùa của ni chúng được kiến lập trong thành Lạc Dương. Các đạo sĩ ở núi Nam Nhạc, trổ hết mọi tài năng, mà pháp lực không bằng tăng sĩ Phật giáo, nên hổ thẹn phẫn uất mà chết.

Sau khi đến Trung Nguyên, tôn giả Ca Diếp Ma Ðằng cùng với tôn giả Trúc Pháp Lan phiên dịch kinh Tứ Thập Nhị Chương, năm quyển kinh Phật Bổn Hạnh, bốn quyển kinh Thập Ðịa Ðoạn Kết, hai quyển 260 giới hợp dị, một quyển kinh Pháp Hải Tạng, và một quyển kinh Phật Bổn Sanh. Hiện nay, chỉ có kinh Tứ Thập Nhị Chương là còn tồn tại. Các bộ kinh khác do hai tôn giả phiên dịch, đều bị thất lạc vì binh đao hỏa hoạn. Bộ kinh Tứ Thập Nhị Chương là quyển kinh đầu tiên nhất được hai tôn giả phiên dịch từ chữ Phạn sang chữ Tàu.

Tương truyền, sau khi dịch xong, kinh này được triều đình cho khắc vào tạng thạch thất, rồi bắt đầu được lưu truyền. Truyện cao tăng kể:

- Ðầu tiên, quyển kinh này được để trong thạch thất Lan Ðài thứ mười bốn.

Thất Lan Ðài, vốn là tạng cấm thư phủ của đời Hậu Hán. Sau này, tôn giả Ca Diếp Ma Ðằng thị tịch tại chùa Bạch Mã.

 

2. Tôn giả Trúc Pháp Lan (Dharmaraksa)

Tôn Giả cũng là người Trung Thiên Trúc. Tôn Giả đọc thuộc kinh luận cả trăm ngàn chương. Trước khi sang Ðông Ðộ, Tôn Giả đã từng được tôn sùng là bậc thầy của các học giả ở bên Thiên Trúc.

Tôn Giả vốn là pháp hữu thân thiết của tôn giả Ca Diếp Ma Ðằng, nên cũng thường đi chu du các nước, hóa độ chúng dân. Sau này do đoàn sứ giả nhà Hán thỉnh cầu, Tôn Giả cùng với Ca Diếp Ma Ðằng sang Ðông Ðộ. Song, các học giả đương thời tại Thiên Trúc đều muốn giữ Tôn Giả ở lại. Vì có đại nguyện hoằng dương Phật pháp, nên Tôn Giả vẫn cứ đi sang Ðông Ðộ. Sau khi đến Lạc Dương, hai tôn giả Trúc Pháp Lan và Ca Diếp Ma Ðằng được Hán Minh Ðế cho cư trú tại chùa Bạch Mã. Hai tôn giả cùng nhau phiên dịch các bộ kinh như đã kể bên trên. Ngoài ra, tôn giả Trúc Pháp Lan còn tự phiên dịch kinh Văn Thù Sư Lợi Tịnh Luật và kinh Ma Nghịch.

 

3. Ngài An Thế Cao (Parthamasiris)

Tên của Ngài vốn là An Tịnh, nhưng vì là thái tử nước An Tức (Parthian), nên người đời sau xưng danh Ngài Là An Thế Cao. Ðối với nước An Tức, sử nhà Tiền Hán và Hậu Hán, đời Tam Quốc, Nam Bắc triều, đã từng ghi rõ. An Tức là nước sáng lập ra quốc gia A Lỗ Tát Khải Tư (Arsakes). Vào đời Hán Minh Ðế niên hiệu Vĩnh Bình thứ mười sáu (73), Ban Siêu thọ mạng làm sứ giả sang Tây Vực. Ðời Hán Hòa Ðế, niên hiệu Vĩnh Nguyên thứ ba (91), Ban Siêu nhậm chức Kỵ Ðô Úy, thống trị ba mươi nước ở Tây Vực. Vào đời Ðông Hán, niên hiệu Chương Hòa nguyên niên (87) nước An Tức triều cống sư tử cho Trung Thổ. Lại nữa, vào niên hiệu Dực Niên, quốc vương nước An Tức phái sứ giả mang lễ vật triều cống sang Trung Thổ, mở đầu cho sự giao thương giữa hai nước. Vào niên hiệu Vĩnh Nguyên thứ mười ba (101), nước An Tức lại thường mang lễ vật sang triều cống cho triều Ðông Hán. Bốn mươi bảy năm sau, ngài An Thế Cao mới qua Trung Thổ.

Ðối với cha mẹ, Ngài rất là hiếu thảo, nên được dân chúng tán thán. Thiên tánh của Ngài rất minh mẫn, lại siêng năng học hành, nên thông suốt hết các điển tích ngoại quốc, cùng bảy diệu (mặt trời, mặt trăng, tinh tú), ngũ hành, y thuật, khí tượng, thiên văn. Quán xem sắc diện của người, Ngài liền biết bịnh tình, rồi chế thuốc thang mà trị bịnh cho. Nghe thinh âm của các loài cầm thú chim chóc đều biết qua ý của chúng. Lần nọ, đang đi trên đường, chợt có một đàn chim yến bay ngang, Ngài bèn bảo với đồng bạn:

- Những con chim yến kia bảo rằng lát nữa sẽ có người mang thức ăn đến cho chúng ta.

Chốc lát sau, quả nhiên ứng nghiệm có thật. Dân chúng nghe qua việc này rất đỗi kinh ngạc và thán phục Ngài. Vì vậy, thanh danh của Ngài từ đó lan truyền và chấn động khắp các nước ở Tây Vực, cùng được các nước xa gần tôn kính.

Lúc còn tại gia học Phật pháp, Ngài thường nghiêm thủ giới luật rất cẩn mật, chẳng có chút giải đãi. Ngài thường hội chúng dân lại để giảng kinh thuyết pháp. Phụ vương vừa băng hà, Ngài bèn lên ngôi. Bấy giờ, vương triều Quý Sương (Kushans, 78-320; kiến lập nước Ðại Nhục Chi) liên tiếp chinh phạt các nước ở phía tây, và uy hiếp nước An Tức. Ngài An Thế Cao thấy thế sự bất an, khổ không, vô thường, nên đối với ngôi vua, Ngài rất chán chường khổ não. Do đó, lo an táng phụ vương xong, Ngài bèn nhường ngôi cho người chú, rồi xuất gia học đạo, mà không lưu luyến gì với ngai vàng, chỉ một mực tinh tấn tu hành. Năm mươi năm sau khi Ngài viên tịch, nước An Tức bị diệt vong vì quần thần tranh ngôi vị.

Xuất gia xong, Ngài duyệt xem khắp tạng kinh thư, mà trong đó đối với luận học A Tỳ Ðàm rất được tâm đắc. Ngài thường tụng trì thiền kinh nên hằng đạt được những sự vi diệu. Vì muốn hoằng dương Phật pháp, Ngài đi khắp các nước, nên rất thông thạo ngôn ngữ của các nước đó. Tạ Phu đời Tấn có viết:" Cao Tông bác thù tục, thiện chúng quốc chi âm", nghĩa là ngài An Thế Cao hiểu rõ phong tục khác nhau của mỗi nước và thông thạo âm thanh ngôn ngữ của các nước đó. Trước khi qua Trung Thổ, lúc còn ở tại nước An Tức, cho đến khi tới Tây Vực, Ngài đã từng tinh thông tiếng Tàu. Ðến đời Hán Hoàn Ðế (147-167), vào khoảng năm ba mươi tuổi, Ngài qua Ðông Ðộ tới đất Trường An. Tài năng cao tuyệt, cơ ngộ mẫn tiệp, chỉ xem qua một lần về điều gì, Ngài liền liễu giải. Ðến nơi, Ngài bắt tay ngay vào việc hoằng dương Phật pháp, và phiên dịch rất nhiều kinh điển, như kinh An Ban Thủ Ý, Âm Trì Nhập, Ðại Thập Nhị Môn, Tiểu Thập Nhị Môn, v.v...

Xưa kia, nhân có một vị tam tạng pháp sư, người Thiên Trúc, tên là Tố Chúng Hộ, đã từng soạn viết yếu nghĩa kinh tích thành hai mươi bảy chương. Ngài An Thế Cao căn cứ bộ trước tác đó, tuyển chọn ra bảy chương rồi dịch sang chữ Tàu, tức là bộ kinh 'Ðạo Ðịa' ngày nay. Tổng cộng, Ngài phiên dịch được ba mươi chín bộ kinh. Tất cả nghĩa lý đều rõ ràng trong sáng, và văn tự rất chính xác. Lời văn tuy không hoa mỹ, nhưng thể chất không thô sơ.

Ngài An Thế Cao thường kể về nghiệp duyên tiền kiếp thần dị của mình mà người khác không thể hiểu nổi. Ngài kể rằng tiền kiếp của Ngài cũng là người xuất gia. Ðương thời, Ngài có một người bạn đồng tu, tánh tình rất nóng nảy. Lúc gặp thí chủ nào làm không vừa ý thì bèn nổi tâm sân hận. Ðã bao lần Ngài thường khuyên nhủ, nhưng tánh tình của vị tăng đó vẫn y nguyên. Hơn hai mươi năm sau, ngài An Thế Cao từ biệt vị tăng đó rồi nói:

- Tôi phải qua Quảng Châu để đền trả món nợ trong đời tiền kiếp. Thầy hiểu thâm sâu về kinh luận, lại tinh cần dụng tâm. Song, vì tánh tình của Thầy nhiều oán hận, nên sau khi xả báo thân, sẽ bị thọ hình tướng ác quỷ. Nếu tôi chứng quả, thì nhất định sẽ cứu độ Thầy thoát tai ương.

Nói xong, ngài An Thế Cao bèn đi qua Quảng Châu. Ðương thời, vùng đó bị nạn loạn lạc, giặc cướp nổi lên như ong. Giữa đường, Ngài gặp một thiếu niên từ xa đi tới. Gã thiếu niên đó bèn tuốt đao ra bảo:

- A! Thầy tới đây để nạp mạng cho Ta!

Ngài bảo:

- Ðời trước tôi thiếu ông một mạng, nên mới lặn lội bao dặm đường xa đến đây để đền trả. Vừa thấy tôi là ông liền khởi tâm sân hận. Ðây chính là vì mối oán cừu chưa hóa giải xong!

Nói xong, Ngài an nhiên đưa đầu để bị chém, mà thần sắc chẳng chút kinh sợ. Không chút chậm trể, gã thiếu niên bèn vung đao chém đầu của Ngài. Ðương thời thần thức bay qua nước An Tức, cũng đầu thai làm thái tử, tức là An Thế Cao hiện thời.

Ðến cuối đời Hán Linh Ðế, hoạn quan tranh quyền. Hán Linh Ðế băng hà, Ðổng Trác (?-192) kéo đại quân vào Lạc Dương. Giặc giã nổi lên không ngừng. Vì vậy, ngài An Thế Cao phải rời thành Lạc Dương, đến vùng Giang Nam để tiếp tục hoằng pháp. Ngài tự bảo:

- Trước tiên, Ta phải qua Lô Sơn, để hóa độ pháp lữ đồng học đời tiền kiếp.

Lúc đến Lô Sơn, Ngài cư trú tại am Ðình Hồ. Theo ngài Huệ Viễn (334-417), trong quyển 'Lô Sơn Lược Ký' có ghi như sau:" Nơi đỉnh núi phía nam, dưới hồ Lâm Cung Ðình, có một miếu thần, nên dùng đó mà đặt cho cung đình. Thần tại miếu Cung Ðình Hồ, được ngài An Thế Cao cảm hóa. Sự tích vẫn còn ghi trong Tự Sơn Bắc Thiên."

Tương truyền, miếu Cung Ðình Hồ rất linh dị. Các thương nhân qua lại vùng đó, trước tiên phải cầu khẩn cúng bái, thì mới được bình an vô sự. Một gã nọ, lén lên núi để chặt tre, mà không chịu qua miếu lễ bái. Thuyền chỏ tre của gã đó vừa ra khỏi bến sông thì bị sóng đánh lật chìm. Các thương nhân thấy vậy, nên lại càng kính thờ thần miếu.

Hôm nọ, ngài An Thế Cao theo hơn ba mươi thương nhân lên thuyền để đến miếu thần đó. Ðến nơi, các thương nhân đi vào thần miếu lễ bái, còn Ngài thì ở trên thuyền. Sau khi họ dâng cúng các phẩm vật để cầu được bình an xong, thần trong miếu bèn bảo họ:

- Trên thuyền có một vị hòa thượng, vậy hãy mời vị đó đến đây.

Thương nhân nghe thế kinh hoàng, bèn vội chạy ra thỉnh Ngài vào miếu. Vừa bước vào, Ngài nghe thần nói:

- Tiền kiếp tôi đã từng cùng với Thầy xuất gia tu đạo tại Tây Vực. Tuy thường hành bố thí, nhưng tánh khí nhiều sân hận, nên mới làm thần tại miếu Cung Ðình Hồ này. Chu vi miếu một ngàn dặm, đều do tôi cai quản. Vì nhờ đời trước thường tu hành hạnh bố thí, nên nay mới được thọ vô số tài vật trân bảo vô giá. Song, do tâm sân hận, nên thọ quả báo làm ác quỷ, có thân hình to lớn xấu xa. Mạng tôi sắp dứt. Lúc chết, thân thể sẽ tiết ra mùi hôi thúi khắp sông hồ. Vì vậy, tôi phải lên nơi khe suối ở vùng núi phía tây mà chết. Sau khi chết, sẽ bị đọa vào địa ngục thọ khổ. Xin Thầy từ bi, mang tất cả đồ vật trân bảo mà thay tôi cúng dường Tam Bảo, cùng xây cất chùa chiền, khiến đời sau của tôi được sanh lên cõi lành.

Nghe qua lời này, ngài An Thế Cao bảo:

- Ta vốn đến đây để hóa độ ngươi. Sao không hóa hiện nguyên hình?

Thần đáp:

- Tôi vốn có hình dạng ác quỷ xấu xa. Nếu hiện hình thì dân chúng chắc sẽ kinh sợ hãi hùng.

- Chỉ việc hiện hình ra là đủ. Dân chúng không sợ hãi đâu.

Từ trong đền thờ, xuất hiện ra một con thuồng luồng to lớn, bò đến kế bên ngài An Thế Cao. Ngài bèn thuyết pháp, và tụng thần chú bằng tiếng Phạn. Hồi sau, con thuồng luồng cảm động tuôn trào rơi lệ như mưa, rồi từ từ biến mất. Ngài bèn nhặt lấy các trân bảo, rồi cùng các thương nhân trở lên thuyền. Bấy giờ, mọi người đều thấy con thuồng luồng hiện nguyên hình trên đỉnh núi phía tây, thân dài cả mấy dặm. Vào lúc hoàng hôn, thuyền đang lướt trên sông, chợt có một thiếu niên xuất hiện, tiến đến cúi đầu đảnh lễ Ngài. Ðược Ngài chú nguyện ban phước lành xong, thiếu niên đó chợt biến mất. Ngài bảo các thương nhân:

- Thiếu niên kia vốn là thần miếu Cung Ðình Hồ. Nay đã thoát thân ác quỷ và thăng lên cung trời.

Miếu Cung Ðình Hồ từ đó không còn linh hiển nữa. Sau này, dân chúng địa phương phát hiện một xác con thuồng luồng to lớn, dài cả mấy dặm, nằm tại một khe suối về phía tây của ngọn núi Lô Sơn. Hiện nay, vùng núi đó có tên là Xà Thôn, quận Tầm Dương, ở Giang Tây.

Tháp Tự Ký ghi:" Chùa Ngõa Quan ở Ðơn Dương, do sa môn Huệ Lập kiến lập vào thời Tấn Ai Ðế. Sau này, sa môn An Thế Cao đem dư vật từ Cung Ðình Hồ đến sửa chữa."

Ðền trả một phần nghiệp báo xong, Ngài cũng đến vùng Quảng Châu, tìm đến người thiếu niên giết mình đời trước, rồi kể lại nhân duyên tiền kiếp, để xả bỏ mối oan khiên xưa, hầu mong cùng nhau kết tình thân hữu. Gặp mặt nhau, Ngài lại nói với người đó:

- Tôi cũng còn một món nợ, chưa trả xong. Hiện tại phải đến nơi đó mà đền trả.

Người đó biết Ngài chẳng phải là phàm phu, nên cung kính cúng dường. Hôm sau, Ngài và người đó ra phố, gặp lúc hai gã nọ đang cầm cây đánh nhau. Một gã nọ chợt đánh nhầm vào đầu của Ngài, khiến Ngài phải vong mạng. Mục kích hai lần nhân quả báo ứng, người đó bèn phát tâm tinh cần tu tập Phật pháp, và cũng thường kể lại câu chuyện thật này cho người khác nghe. Bất luận người nào, hể nghe qua câu chuyện này cũng đều tin sâu lý nhân quả báo ứng trong ba đời.

Tiếng Phạn và tiếng Tàu rất khác biệt. Song, những kinh điển do Ngài dịch ra, người người đều đọc dễ dàng.

Trong tập Tam Tạng Ký, đệ tử của ngài An Thế Cao là Nghiêm Phật Ðiều viết bài tựa về quyển 'Sa Di Thập Huệ Chương Cú'. Thầy rất tán dương công đức của vị tôn sư. Ngài Khương Tăng Hội (217-280) tán thán ngài An Thế Cao trong bài tựa về kinh 'An Ban Thủ Ý'. Trần Huệ xưng dương ngài An Thế Cao là Bồ Tát Phổ Kiến trong bài tựa về kinh Âm Trì Nhập. Ngài Ðạo An (312-385) cũng rất tán dương ngài An Thế Cao trong bài tựa về kinh 'An Ban Thủ Ý', và thường bảo:

- Nếu gặp được ngài An Thế Cao, thì cũng đồng như gặp được bậc thánh nhân.

Theo ngài Ðạo An thì ngài An Thế Cao liên tiếp dịch kinh điển trong hai mươi hai năm, từ đời Hán Hoàn Ðế (148) đến đời Hán Linh Ðế (169). Ngoài ra, trong các bài tựa về kinh Ðại Thập Nhị Môn, Ðạo Ðịa, v.v... các vị cao tăng đương thời đồng xưng tán công đức của ngài An Thế Cao.

Nghiêm Phật Ðiều đã từng viết:" Phàm nơi xuất nhập của ngài An Thế Cao, hoặc dùng miệng mà giải thích, hoặc dùng văn tự mà truyền."

Dùng miệng giải thích tức là Ngài thường diễn giảng kinh điển. Dùng văn tự mà truyền tức là Ngài phiên dịch kinh từ tiếng Phạn sang tiếng Tàu.

Xưa kia, Phật giáo đã truyền vào Ðông Ðộ rất sớm. Dân gian cũng đã biết phụng tín Phật pháp. Lại nữa, cũng có rất nhiều vị tăng từ Tây Vực sang phiên dịch kinh điển, nhưng phần nhiều không đề rõ tên kinh, thậm chí danh tánh của người dịch cũng không có. Mãi cho đến thời Hán Minh Ðế, triều đình mới chính thức thừa nhận sự dịch kinh của hai tôn giả Ca Diếp Ma Ðằng và Trúc Pháp Lan. Song, bàn về lịch sử thì ngài An Thế Cao mới là vị phiên dịch kinh điển đầu tiên.

Hai trăm năm sau khi ngài An Thế Cao viên tịch, vào đời Ðông Tấn, ngài Ðạo An (312-385) soạn viết mục lục kinh điển. Người sau y theo đó mà viết ra quyển 'Xuất Tam Tạng Ký Tập', phân đoạn và ghi chép lại tên của các nhà dịch giả thời xưa. Y cứ theo quyển 'Xuất Tam Tạng Ký Tập' thì ngài An Thế Cao phiên dịch được ba mươi bốn bộ, và bốn mươi quyển kinh như sau: Kinh An Ban Thủ Ý (1 quyển), Âm Trì Nhập (1 quyển), Bách Lục Thập Phẩm (1 quyển), Ðại Thập Nhị Môn (1 quyển), Tiểu Thập Nhị Môn (1 quyển), Ðại Ðạo Ðịa (2 quyển), Nhân Bổn Dục Sanh (1 quyển), Ðạo Ý Phát Hạnh (2 quyển), A Tỳ Ðàm Ngũ Pháp (1 quyển), Thất Pháp (1 quyển), Ngũ Pháp (1 quyển), Thập Pháp (2 quyển), Phổ Pháp Nghĩa (1 quyển), Nghĩa Quyết Luật (1 quyển), Lậu Phần Bố (1 quyển), Tứ Ðế (1 quyển), Thất Xứ Tam Quán (2 quyển), Cửu Hoành (1 quyển), Bát Chánh Ðạo (1 quyển), Tạp Kinh Tứ Thập Tứ Thiên (2 quyển), Ngũ Thập Giáo Kế (2 quyển), Ðại An Ban Thủ (1 quyển), Tư Duy (1 quyển), Thập Nhị Nhân Duyên (1 quyển), Ngũ Ấm Dụ (1 quyển), Chuyển Pháp Luân (1 quyển), Lưu Nhiếp (1 quyển), Thị Pháp Phi Pháp (1 quyển), Pháp Thọ Trần (1 quyển), Thập Tứ Ý (1 quyển), Bổn Tướng Y Chí (1 quyển), A Tỳ Ðàm Cửu Thất Bá Kết (1 quyển), Thiền Hành Pháp Tưởng (1 quyển), Nan Ðề Ca La Việt (1 quyển).

Nội dung của các kinh điển mà ngài An Thế Cao phiên dịch, đại lược chia làm hai phần: Thứ nhất là loại kinh thuộc về thiền quán, như kinh Ðại An Ban Thủ Ý, Thiền Hành Hành Pháp Tưởng, v.v... Loại thứ hai là theo pháp số, như kinh Âm Trì Nhập, Tứ Ðế, Bát Chánh Ðạo, Ngũ Pháp, Thập Nhị Nhân Duyên, v.v...

Kinh điển đại biểu thiền quán là kinh An Ban Thủ Ý. Nội dung của quyển kinh này có mười điểm: Sổ tức, tùy tưởng, chỉ, quán, hoàn, tịnh, tứ đế.

1/ Sổ tức (ganana) là đếm hơi thở. 2/ Tùy tưởng (anugama) là tùy theo hơi thở ra vào mà tâm không tán loạn. 3/ Chỉ (sthana) là ngưng tâm tịnh lự. 4/ Quán (upalaksana) là quán sát cảnh giới rõ ràng. 5/ Hoàn (vivartana) cũng gọi là chuyển, tức là phản tỉnh mà quán tâm, biết rõ nó không thật. 6/ Tịnh (parisuddhi) là tâm không có chỗ nương y, không khởi vọng tưởng. Cộng thêm tứ đế là khổ, tập, diệt, đạo, thành mười điểm phát huệ. Kinh An Ban Thủ Ý được thành lập do mười điểm huệ này. Song, bộ kinh này nổi bật tại sáu điểm đầu. Nương vào sáu điểm này mà sau này đại sư Trí Giả (538-596) của tông Thiên Thai lập ra Lục Diệu Pháp Môn. Sáu loại này do sổ tức quán mà nhập vào; từ từ điều hòa sự hô hấp, và đếm hơi thở ra vào, để khiến tâm tập trung một nơi, tức tu tập pháp tịnh lự. Nhờ quán sát mà biết rõ đối tượng được quán. Nhờ quán tâm mà thật ngộ lý không, rồi đạt đến cảnh giới hoàn toàn không khởi vọng niệm. Sáu loại này tức là An Ban Thủ Ý. Trong kinh lại dùng: Tứ ý chỉ là sổ tức; tứ ý đoạn là tùy tưởng; tứ thần túc niệm là chỉ; ngũ căn ngũ lực là quán; thất giác ý là hoàn; bát hạnh là tịnh. Trong đó thuyết tường tận về sổ tức. Hành trì sáu việc này thì cũng có thể thành tựu được việc niệm kinh Tam Thập Thất Phẩm. Kinh An Ban Thủ Ý thuyết tường tận về cách hành pháp của sáu việc này.

Kinh An Ban Thủ Ý, bộ kinh đại diện cho giáo lý tiểu thừa của ngài An Thế Cao, được người Tàu tiếp nạp rất mau chóng. Ðạo giáo dùng bộ kinh này mà lập ra pháp 'Thai Tức'.

 

Ý nghĩa của kinh An Ban Thủ Ý.

Ðức Phật bảo:

- Ta hành pháp 'An Ban Thủ Ý' trong chín mươi ngày, mà thân tâm được tự tại. Sau khi đã hành pháp An Ban Thủ Ý xong, thì thu hồi ý niệm được. An là thân. Ban là hơi thở. Thủ ý là đạo. Thủ tức là cấm, cũng gọi là không phạm giới. Cấm cũng gọi là hộ. Hộ tức là hộ hết tất cả giới mà không phạm. Ý là tức ý, cũng là đạo.

An Ban tức là hơi thở ra vào, cũng là pháp hô hấp. Pháp hô hấp, tức Sổ Tức Quán, chính là nền tảng căn bản của việc tu đạo. Y theo pháp này thì có thể sanh đức tướng Như Lai. 'An Ban' y theo pháp hô hấp mà thành 'Thủ'. Tứ thiền y cứ nơi thân mà hoàn thành 'Ðịnh'. Pháp hô hấp có sáu giai đoạn: Sổ tức, tùy, chỉ, quán, hoàn, tịnh. Người tu hành thiền quán, thường phải trải qua bốn gian đoạn thiền định. Ngài Ðạo An chỉ rõ quán Sổ Tức cùng Tứ Thiền là điểm đặc sắc của 'An Ban'.

Sự tiếp nạp kinh 'An Ban Thủ Ý' vào nền văn hóa tư tưởng của người Tàu như sau: Con người vốn y theo trời đất dưỡng khí mà sống. Do đó, sanh mạng dựa trên việc còn mất của sự hô hấp. Hô hấp tức hơi thở, là cội gốc của sanh mạng, cũng là lực hoạt động của trời đất. Nếu nhận rõ khí hô hấp năng thường vận hành, thì con người có thể hòa cùng trời đất đồng thành một thể. Pháp này đồng với lý thuyết của Trang Tử. Từ xưa đến nay, con người đã biết hít vào hơi mới, và thở ra hơi cũ.

Pháp Thai Tức của người Tàu, do Ðạo gia phát minh. Trong các bộ Kinh do ngài An Thế Cao dịch như kinh An Ban Thủ Ý và Âm Trì Nhập, thì pháp 'An Ban' bị Ðạo gia lợi dụng tiếp nạp mà biến chế ra pháp 'Thai Tức'.

Sau này đại sư Trí Giả nương vào lục hạnh (sáu hạnh) của kinh An Ban Thủ Ý để lập ra 'Lục Diệu Pháp Môn'. Thật vậy, phần thứ tư của Thiên Thai Tiểu Chỉ Quán, đều đàm luận về pháp hô hấp. Thiền sư Ðạo Nguyên người Nhật, khi thuyết về pháp môn tọa thiền, cũng đều bàn về pháp hô hấp.

Do đó, về phương diện tư tưởng pháp thức tu hành, trải qua bao đời, kinh An Ban Thủ Ý ảnh hưởng rất lớn đối với người tu hành thiền quán.

Ðại biểu cho kinh pháp số mà ngài An Thế Cao phiên dịch là kinh Âm Trì Nhập. Trong đó có: Sắc, thanh, hương, vị, tà niệm, ngũ ấm; sáu thể là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, tâm; mười hiện sắc nhập là nhãn, sắc, nhĩ, thanh, tỷ, hương, thiệt, vị, thân, lạc; sáu tâm sáu thức là nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức; tứ đế là khổ, tập diệt, đạo; ba mươi bảy phẩm trợ đạo là tứ ý chỉ, tứ ý đoạn, tứ thần túc, ngũ căn, ngũ lực, thất giác ý, bát chủng đạo hạnh; ngũ căn là tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn, huệ căn; năm đức là tín, tinh tấn, niệm, định, huệ; bốn sang là dục sang, kiến kết sang, giới nguyện sang, thân kết hạnh sang; ba cõi là dục giới, sắc giới, vô sắc giới.

 

4. Ngài Chi Lâu Ca Sấm (Lokaraksa), nhà dịch giả kinh điển Ðại Thừa

Thời Ðông Hán, tiếp tục sự nghiệp phiên dịch của ngài An Thế Cao có các ngài Chi Lâu Ca Sấm, An Huyền, Trúc Sóc Phật, Nghiêm Phật Ðiều, v.v...

Thời đại Tần và Hán, nước Ðại Nhục Chi tung hoành tại Trung Á, khống chế vùng bắc bộ A Phú Hãn, Kiền Ðà La, v.v... Nhà đại dịch giả đầu tiên từ nước Ðại Nhục Chi đến Trung Thổ là ngài Chi Lâu Ca Sấm, gọi tắt là Chi Sấm. Tánh tình của Ngài hoạt bát minh mẫn; suốt đời tu hành nghiêm thủ giới luật, không vượt ngoài giới pháp một ly tấc; tinh cần tụng trì bao kinh điển; cả đời lấy chí nguyện hoằng dương Phật pháp làm trọng trách.

Ngài đến Lạc Dương vào những năm cuối cùng của Hán Hoàn Ðế (147-167). Trong thời Linh Ðế Quang Hòa, niên hiệu Trung Bình (178-190), Ngài chuyên phiên dịch kinh điển. Song, về cuộc đời tiểu sử của Ngài rất là đơn giản; thậm chí nhập tịch vào niên đại nào, tại nơi nào, cũng không rõ. Y cứ theo 'Tam Tạng Ký', ngài Chi Sấm phiên dịch mười ba bộ kinh, và hai mươi bảy quyển như sau: 1/ Kinh Thủ Lăng Nghiêm (2 quyển); 2/ Ban Chu Tam Muội (1 quyển); 3/ Bát Nhã Ðạo Hạnh Phẩm (10 quyển); 4/ Truân Chân Ðà La Ni (2 quyển); 5/ Phương Ðẳng Bộ Cổ Phẩm Viết Di Nhật Thuyết Bát Nhã (1 quyển); 6/ Quang Minh Tam Muội (1 quyển); 7/ A Xà Thế Vương (2 quyển); 8/ Bảo Tích (1 quyển); 9/ Vấn Tự (1 quyển); 10/ Hồ Bát Nhã Nê Hoàn (1 quyển); 11/ Suất Sa (1 quyển); 12/ A Xà Phật Quốc (1 quyển); 13/ Bột Bổn (2 quyển); 14/ Nội Tạng Bách Phẩm (1 quyển).

Ngài An Thế Cao phần nhiều chuyên dịch về kinh điển tiểu thừa. Phần đặc sắc của ngài Chi Sấm là chuyên dịch về kinh điển đại thừa. Lý do có sự khác biệt này là vì vào đương thời, tại nước An Tức của ngài An Thế Cao, Phật giáo Tiểu Thừa rất hưng thạnh, còn tại nước Ðại Nhục Chi của ngài Chi Sấm, thì Phật giáo Ðại Thừa lại phát triển mạnh mẽ. Ngoài ra, ngài Trúc Sóc Phật chỉ mang kinh điển đại thừa từ Tây Vực sang Trung Thổ, rồi truyền lại cho ngài Chi Sấm phiên dịch. Ảnh hưởng đến hậu thế mạnh mẽ nhất là bản kinh Ðạo Hạnh Bát Nhã do ngài Chi Sấm phiên dịch. Dĩ nhiên, cách thiền quán trong kinh Thủ Lăng Nghiêm không đồng quan điểm hành thiền của ngài An Thế Cao, vì bộ kinh này thuyết minh thiền quán của đại thừa. Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội là bộ kinh mà ngài Chi Sấm dịch trước nhất. Trong đời Ngụy và Tấn, thiền quán đại thừa đã được lưu hành, nên sứ mạng phiên dịch kinh điển đại thừa của ngài Chi Sấm rất quan trọng. Cái khó của dịch giả là sự vận dụng văn tự. Ngài thường không câu nệ nơi lời văn trau chuốt, mà chỉ cầu dịch toát được ý kinh.

Vị tăng có mối quan hệ mật thiết với ngài Chi Sấm là ngài Trúc Sóc Phật. Ðời Hán Linh Ðế, Quang Hòa năm thứ hai (179), ngài Trúc Sóc Phật mang kinh điển đến Lạc Dương, và cùng với ngài Chi Sấm bắt tay vào sự nghiệp phiên dịch kinh điển. Theo sử viết thì vào rằm tháng chín năm 179, ngài Trúc Sóc Phật khẩu truyền đọc kinh Ðạo Hạnh và Ban Chu Tam Muội; ngài Chi Sấm phiên dịch; thị giả là Nam Dương Trương Thiếu An, Nam Hải Tử Bích. Người trợ giúp là Tôn Hòa, Chu Ðề Vị.

Ngoài ngài Trúc Sóc Phật ra, ngài Chi Sấm còn có mối quan hệ mật thiết với ngài Chi Diệu, vốn là một tăng sĩ của nước Ðại Nhục Chi. Ngài Chi Diệu cũng dịch được một quyển kinh Thành Cụ Quang Minh Tam Muội, mà bộ kinh này cũng đồng với kinh Quang Minh Tam Muội do ngài Chi Sấm dịch. Theo Huệ Kiểu trong quyển Cao Tăng Truyện thì ngài Chi Diệu dịch kinh A Na Luật Bát Niệm, Tiểu Ðạo Ðịa, Thành Cụ Quang Minh Ðịnh Ý, Mã Hữu Tam tướng, Mã Hữu Bát Thái Dụ Nhân, v.v...

Ngoài ra, có hai nhà dịch giả cũng từ nước Ðại Nhục Chi đến Ðông Ðộ là Chi Việt và Chi Lượng. Chi Việt cũng xưng là Chi Cung Minh. Trong thời đông Hán Linh Ðế, người cha đã đến Trung Thổ, nên ngài Chi Việt xuất sanh tại Ðông Ðộ. Do đó, ngài Chi Việt đã sớm thông thạo tiếng Tàu. Tuy đã từng gặp ngài Chi Sấm, nhưng không thể thờ làm thầy, mà chỉ y theo đệ tử của ngài Chi Sấm là Chi Lượng mà học đạo; có lẽ vì lúc đó ngài Chi Sấm đã già hay sắp viên tịch.

Ngài Chi Việt tài hoa xuất chúng, thông suốt thâm sâu nội điển và ngoại điển. Ngài Chi Việt dịch kinh rất lưu loát, uyển chuyển, và đạt được ý kinh. Vì loạn lạc sau đời Ðông Hán, ngài Chi Việt vào nam đến nước Ngô. Từ năm 139 đến năm 153, ngài Chi Việt dịch được mười quyển kinh.

Trong thời Hán Linh Ðế, xuất thân từ nước An Tức cùng với ngài An Thế Cao là An Huyền. Ông vốn là ưu bà tắc tại gia, tánh tình ngay thẳng, nghiêm túc thủ trì năm giới tại gia, uyên bác đọc rất nhiều kinh điển. Cuối đời Hán Linh Ðế, niên hiệu Quang Hòa thứ tư (181), ông đến Lạc Dương. Vì cần người giao dịch, nên ông được giao chức Kỵ Ðô Úy. Tánh tình của ông rất hòa nhã, thường lấy việc hành trì Phật pháp hằng ngày làm bổn phận sự. Dần dần biết tiếng Hán, nên ông nỗ lực tuyên giảng kinh điển Phật pháp, và thường cùng với các vị sa môn đàm luận. Những Phật tử tu theo giáo đại thừa đều gọi ông là Ðô Úy Huyền.

An Huyền đã từng cùng với Nghiêm Phật Ðiều dịch kinh Pháp Kính. Kinh Pháp Kính này do An Huyền đọc từ tiếng Phạn chuyển sang tiếng Hán, rồi do Nghiêm Phật Ðiều nhuận sắc, nên văn dịch rất hay, mà người đời sau thường tán thán.

Nghiêm Phật Ðiều là người đã giúp An Huyền dịch kinh Pháp Kính. Vốn là người An Huy, Nghiêm Phật Ðiều thuở ấu thơ rất hiếu học, và lòng tín thành cùng trí huệ đều đầy đủ. Sau này xuất gia tu học, làm đệ tử của ngài An Thế Cao. Theo lịch sử Phật giáo Trung Quốc thì thầy Nghiêm Phật Ðiều là người Tàu xuất gia đầu tiên nhất. Nghiêm Phật Ðiều cũng thường chú trọng vào việc phiên dịch kinh điển. Thế nhân đương thời đều xưng tán ba nhà dịch giả: An Thế Cao, An Huyền, Nghiêm Phật Ðiều. An Huyền xưng tán Nghiêm Phật Ðiều dịch kinh như sau:

- Thầy Nghiêm Phật Ðiều dịch kinh, khiến người đọc tỉnh ngộ mà không phiền lụy. Văn dịch rất tinh tường diệu xảo.

Ngài Khương Tăng Hội tán thán An Huyền và Nghiêm Phật Ðiều trong bài tựa về kinh Pháp Kính:" Hai vị hiền giả Kỵ Ðô Úy An Huyền và Lâm Hoài Nghiêm Phật Ðiều vào tuổi thanh niên, chí hoằng nghiệp thánh; lời lẽ sâu xa, tận cùng ý thần, đạt mối u huyền; thương cho thế nhân mù lòa mê muội, không biết đến đại Pháp, nên kiệt tận tư tưởng mà phiên dịch quyển kinh mẫu mực này. Ðô Úy khẩu trần thuật. Nghiêm Phật Ðiều thọ bút."

Thời kỳ cuối cùng của nhà Hậu Hán, trong các nhà dịch giả, có Nghiêm Phật Ðiều là người chú mục. Thầy Nghiêm Phật Ðiều soạn trước tác quyển 'Sa Di Thập Huệ Chương Cú'.

Quyển 'Sa Di Thập Huệ Chương Cú' vốn do ngài An Thế Cao dịch chưa xong, nên đệ tử của ngài là Nghiêm Phật Ðiều tiếp tục dịch hoàn thành.

Ngoài ra, trong đời Hán Linh Ðế, còn có các nhà dịch giả như Chi Diệu (sa môn của nước Ðại Nhục Chi), Khương Cự (người nước Khương Cư), Khương Mạnh Tường (người nước Khương Cư). Chi Diệu dịch quyển kinh Thành Cụ Ðịnh Ý Tiểu Bổn Khởi, v.v... tại Lạc Dương. Khuơng Cự dịch kinh Vấn Ðịa Ngục Sự vào năm 187; lời văn chỉ thẳng vào bổn ý chỉ của kinh, không gia sức nhuận sắc. Khương Mạnh Tường cùng với Trúc Ðại Lực (người Thiên Trúc) dịch quyển Trung Bổn Khởi và Ðạo Hạnh Khởi vào năm 199. Hai quyển kinh bằng tiếng Phạn này vốn do sa môn Ðàm Quả thỉnh tại nước Ca Duy La Vệ.

Sau khi nhà Hậu Hán mất, nước Tàu phân thành ba nước: Ngụy, Thục, Ngô. Vào thời đó, ở phía bắc, trung tâm Phật giáo là Lạc Dương. Trung tâm Phật giáo ở phía nam là Kiến Nghiệp (Nam Kinh). Ðó là hai nơi mà các nhà dịch giả từ Thiên Trúc và Tây Vực thường lui tới. Theo quyển 'Khai Nguyên Lục' thì các nhà dịch giả tại nước Ngụy như: 1/ Ngài Ðàm Kha Ca La, nguời trung Thiên Trúc, đến Trung Thổ vào đời Tào Ngụy, niên hiệu Gia Bình thứ hai (250); 2/ ngài Khương Tăng Khải, người Thiên Trúc, đến Trung Thổ vào đời Tào Ngụy, niên hiệu Gia Bình thứ tu (252); 3/ ngài Ðàm Vô Ðế, người nước An Tức, đến Trung Thổ vào đời Tào Ngụy, niên hiệu Chánh Nguyên nguyên niên (254); 4/ ngài Bạch Diên, người Tây Vực, đến Trung Thổ vào đời Tào Ngụy, niên hiệu Cam Lộ thứ ba (258); 5/ ngài An Pháp Hiển, người Tây Vực, đến Trung Thổ vào đời Tào Ngụy (không rõ niên đại).

 

5. Ngài Ðàm Kha Ca La (Dharmakala)

Sự phiên dịch luật điển của ngài Ðàm Kha Ca La ảnh hưởng rất lớn đối với giới tăng chúng tại đất Tào Ngụy.

Ngài Ðàm Kha Ca La tiếng Tàu dịch là Pháp Thời, xuất thân từ trung Thiên Trúc, gia thế đời đời đều là phú hộ giàu sang, thường tu Phạm Phước. Từ nhỏ, tài năng vượt thường nhân. Uyên bác học rộng, thông suốt bốn quyển Phệ Ðà, am tường thiên văn, tinh sao, địa lý, vận thế, đồ thư, sấm vĩ. Ngài từng bảo:

- Văn lý của thiên hạ, đều nằm trong bụng Ta.

Ðó là lời tự tín. Song lúc gặp Phật pháp thì những điều chấp đó đều tiêu tan. Năm hai mươi lăm tuổi, Ngài đến tham kiến một vị tăng tại tăng xá, chợt thấy quyển Thắng Pháp A Tỳ Ðàm Tâm Luận, nên bèn lấy đọc. Ðối với quyển này, Ngài hoàn toàn hoang mang, không thể hiểu nổi. Dẫu đọc cả ba lần mà cũng không hiểu rõ, nên than:

- Từ lúc trưởng thành, tất cả sự học vấn, điển tích, v.v... Ta chỉ cần đọc qua một lần là thông đạt ý chỉ, mà chẳng bao giờ xem quá ba lần. Hôm nay xem quyển kinh Phật giáo, thật vượt ngoài lý giải của mình. Ðạo lý trong đây thật thâm sâu, tất phải là tinh yếu.

Do đó, Ngài cầm quyển luận này, đi đến tăng phòng, vấn hỏi chư tăng, giải thích về huyền học A Tỳ Ðàm. Ðược giải thích xong, Ngài bèn thâm ngộ lý nhân quả báo ứng, và thông hiểu đạo lý luân hồi trong ba đời. Từ đó, Ngài hiểu rõ Phật giáo thâm sâu quảng bác mà sách vở thế tục không thể bì được. Do đó, Ngài quyết định xả bỏ vinh hoa phú quý ở thế gian mà xuất gia tu đạo. Ngài thường tu hành khắc khổ, đọc tụng kinh điển đại thừa và tiểu thừa cùng các bộ luật Tỳ Ni, rồi lại đi giáo hóa chúng dân.

Ðời Tào Phế Ðế, niên hiệu Gia Bình thứ hai (250), Ngài đến Lạc Dương. Ðương thời, tuy đã có Phật pháp, mà đạo phong suy đồi. Rất nhiều tăng sĩ, chưa từng đăng đàn thọ giới, chỉ hành giống như kẻ tục. Sự khác biệt là họ cạo đầu đắp y, và thường lo hành trì lễ sám, tế hội, hay tế tự. Tế hội do Sở Vương Anh hay Hán Hoàn Ðế lập ra. Tế tự vốn là pháp cúng bái của Hoàng Lão, rồi lại thêm nghi thức lễ bái của Phật giáo. Tăng đồ đời Tào Ngụy, không cần thọ giới. Ðối với các phương pháp lễ sám, cứ y theo pháp thức mà hành, chứ không hiểu gì về thể pháp của Phật giáo.

Vì vậy, vừa đến Lạc Dương, ngài Ðàm Kha Ca La chủ trương rằng tất cả nghi thức, phải tôn theo những điều Phật chế. Do Ngài tinh thông luật học, chư tăng nơi đó bèn khẩn thỉnh Ngài phiên dịch kinh điển giới luật. Văn nghĩa trong luật tạng rất là phong phú và phức tạp, mà Phật giáo vào đương thời chưa được hưng thịnh. Nếu y chiếu theo luật tạng mà phiên dịch, thì e rằng đại chúng khó lòng tiếp thọ, nên Ngài chỉ dịch ra một quyển Tăng Kỳ Giới Tâm (toát yếu giới luật của Ðại Chúng Bộ). Quyển 'Phật Tổ Thống Ký' thứ ba mươi lăm, ghi như sau:" Niên hiệu Gia Bình thứ hai, tam tạng pháp sư Ðàm Kha Ca La (hay Ðàm Ha Ca La) từ trung Thiên Trúc đến Lạc Dương, dịch quyển 'Tăng Kỳ Giới', và lập pháp Yết Ma thọ tăng đại giới. Trước kia, tỳ kheo xuất gia, chỉ xuống tóc mà thôi, chưa từng có luật nghi, mà chỉ có sám pháp như tế tự. Lúc đến Lạc Duơng, ngài Ðàm Kha Ca La dịch ra quyển giới bổn, để làm quy tắc nhật dụng tu hành cho tăng chúng."

Xưa kia, hai chúng tỳ kheo và tỳ kheo ny chỉ thọ tam quy y. Ðại tăng và sa di không có phân biệt rõ ràng. Vì vậy, ngài Ðàm Kha Ca La cùng với sa môn nước An Tức là Ðàm Ðế, dịch bộ giới bổn Tứ Phần Luật Ðàm Vô Ðức. Kế đến mười vị sa môn Thiên Trúc cùng nhau hành pháp Yết Ma truyền giới. Sa môn Châu Sĩ Hành đầu tiên thọ giới. Cao Tăng Truyện ghi:" Giới luật tại miền Trung Thổ giới luật, phát xuất từ đây."

Thế nên, tại Ðông Ðộ người sau tôn ngài Ðàm Kha Ca La là sơ tổ của Luật Tông.

Lúc trước, ngài An Thế Cao đã từng dịch những quyển giới luật pháp tiểu thừa như: Kinh Xá Lợi Phất Hối Quá, kinh Pháp Luật Tam muội, kinh Phạm Giới Báo Ứng Khinh Trọng, kinh Ðại Tỳ Kheo Ba Ngàn Oai Nghi (2 quyển).

Tiếp tục sự nghiệp phiên dịch giới luật đại thừa của ngài Ðàm Kha Ca La là ngài Khương Tăng Khải và Ðàm Ðế.

 

6. Ngài Khương Tăng Khải

Ngài Khương Tăng Khải (Samgaraman) tuy không rõ xuất thân từ đâu, nhưng có thể là người nước Khương Cư. Cuối niên hiệu Gia Bình (253), ngài Khương Tăng Khải đến Lạc Dương. Theo quyển 'Khải Nguyên Lục' thứ nhất viết thì tại chùa Bạch Mã ở Lạc Dương, ngài Khương Tăng Khải dịch Ức Già Trưởng Giả Vấn Kinh, Vô Lượng Thọ Kinh (2 quyển), Tứ Phần Tạp Yết Ma. Ðối với kinh Vô Lượng Thọ, có nhiều thuyết khác nhau. Thuyết thứ nhất cho rằng kinh này do ngài Khương Tăng Khải đời Tào Ngụy dịch. Thuyết thứ hai cho rằng ngài Trúc Pháp Hộ đời Tây Tấn dịch. Thuyết thứ ba cho rằng ngài Phật Ðà Bạt Ðà La cùng thầy Bảo Vân dịch.

 

7. Ngài Ðàm Ðế hay Ðàm Vô Ðế (Dharmasatya)

Theo Cao Tăng Truyện thì sa môn Ðàm Ðế vốn là người nước An Tức, đến Lạc Duơng vào đời Tào Ngụy vào năm 254, và dịch ra quyển Ðàm Vô Ðức Yết Ma.

Từ đời Ðông Hán đến Tam Quốc, đa số các nhà dịch giả đều chuyên phiên dịch kinh điển. Ðối với giới luật căn bổn cốt yếu của tăng đoàn, ít có ai xiển dương truyền bá. Mãi cho đến cuối đời Tấn, và đời Tào Ngụy, luật điển mới từ từ được phiên dịch.

Ngoài ra, có ngài Bạch Diên người nước Quy Từ, vào đời Tào Ngụy, cuối niên hiệu Chánh Thủy, phiên dịch kinh Thủ Lăng Nghiêm, kinh Tu Lại, kinh Trừ Não Hoạn.

Y cứ theo quyển 'Lịch Ðại Tam Bảo Thống Ký' của ngài Trúc Ðạo Tổ, còn có nhà dịch giả là An Pháp Hiển. Ngài An Pháp Hiển dịch kinh La Ma Già (3 quyển), kinh Ðại Bát Niết Bàn (2 quyển), cùng bốn bộ và hai quyển kinh khác. Ngài Vô La Xoa (Moraksa), người ở Tây Vực, đa văn bác học, cùng với cư sĩ Trúc Thúc Lan (vốn là người Thiên Trúc, theo cha chạy lánh nạn sang Hà Nam) dịch kinh Phóng Quang Minh Bát Nhã vào niên hiệu Nguyên Khang (291)

Ngoài ra, còn có các nhà dịch giả như: Cương Lương Lâu Chí (Kalaruci) người Thiên Trúc, phiên dịch kinh tại Quảng Châu vào năm 281. Ngài An Pháp Khâm, người An Tức, dịch kinh tại Lạc Dương từ năm 281 đến năm 306. Ngài Chi Pháp Ðộ, người nước Ðại Nhục Chi, dịch kinh tại Lạc Dương vào năm 301. Ngài Nhã La Nghiêm, người Thiên Trúc, dịch kinh tại Lạc Dương vào khoảng năm 316.

 

8. Ngài Khương Tăng Hội

Tổ tiên của Ngài vốn là người nước Khương Cư, sau này qua định cư sống tại Thiên Trúc. Người cha vì việc buôn bán, nên di cư sang Việt Nam (Giao Châu). Vì vậy, Ngài được sanh ra tại Việt Nam (Giao Châu). Lúc lên mười tuổi, cha mẹ đều qua đời. Mãn hạn tang chế, Ngài quyết chí xuất gia làm tăng. Trong tăng chúng, Ngài gắng sức tu hành, không giải đãi chút nào. Ngài dùng tâm nhu hòa nhã nhặn mà đối xử với người khác. Dẫu có kiến thức rộng, Ngài vẫn luôn dốc chí tu học. Ðối với ba tạng kinh, luật, luận Ngài đều liễu ngộ thấu triệt. Ðối với thư, thi, dịch, lễ, xuân thu của Nho giáo cùng các điển tích khác, Ngài đều am tường hiểu rõ. Ngoài ra, về thiên văn, địa lý, và các loại thư tịch, Ngài đều thông suốt. Biện tài mẫn tiệp, văn chương lưu loát.

Ðương thời, vùng Giang Nam do Ngô Tôn Quyền khống chế. Phật giáo chỉ vừa truyền đến nơi đó, nên sự giáo hóa chưa được mở rộng. Vì quyết chí làm Phật pháp hưng thịnh, nên Ngài từ Việt Nam (Giao Châu) sang đến Giang Nam xây chùa tạo tượng Phật. Vào niên hiệu Xích Ðiểu thứ mười (247), Ngài đến Kiến Nghiệp (Nam Kinh, kinh đô của nhà Ngô), xây am tranh, lập tăng phòng, tạo tượng Phật.

Vì Phật giáo mới được truyền vào, nên dân chúng chỉ hiểu Phật pháp qua những lời truyền tụng của các sa môn hành cước. Do đó, ít có ai lãnh hội được nghĩa lý Phật pháp, và rất ít người biết đến công hạnh xuất gia làm sa môn. Một ông quan đã từng tâu với Ngô Tôn Quyền:

- Những người Thiên Trúc từ phương tây đến, rồi tự xưng là sa môn. Dung mạo y phục đều khác với người Tàu. Xin Ðiện Hạ hãy thẩm tra những hành động cử chỉ của họ.

Ngô Tôn Quyền bảo:

- Trẫm từng nghe tích xưa Hán Minh Ðế mộng thấy thần nhân, danh xưng là Phật. Những hành vi cử động của các sa môn đó, chẳng giống với đạo phong của Phật sao?

Ngô Tôn Quyền sau này triệu Ngài vào kinh để chất vấn:

- Sa môn các ngài tu hành theo Phật giáo, có được những điềm linh ứng gì?

Ngài nói:

- Ðức Như Lai nhập diệt đã hơn một ngàn năm, mà xá lợi lưu lại đến ngày nay, vẫn hiển hiện bao điềm linh diệu. Xưa kia, vua A Dục đã từng kiến tạo tám mươi bốn ngàn ngôi tháp để thờ xá lợi. Tháp tự chính là biểu thị cho sự giáo hóa của Phật pháp.

Nghe qua những lời đối đáp này, Ngô Tôn Quyền cho rằng đó chỉ là những lời nói khoác, nên ra lịnh, bảo:

- Nếu Ngài cầu được xá lợi, thì Trẫm cho phép kiến lập tháp tự. Nếu có điều chi dối trá, Trẫm sẽ y theo quốc pháp mà trị tội!

Nghe như thế, Ngài định ước với Ngô Tôn Quyền là trong kỳ hạn bảy ngày, sẽ cầu được xá lợi. Trở về chùa, nhận thấy việc này rất quan trọng, liên hệ tới sự tồn vong của Phật pháp, nên Ngài vân tập đồ chúng, bảo:

- Sự tồn vong, hưng thịnh của Phật pháp đều do việc khẩn cầu xá lợi. Nếu chúng ta không chí thành khẩn cầu xá lợi, thì e rằng Phật pháp khó mà lưu truyền tại vùng này!

Thế nên, Ngài cùng với chư đồ đệ trai giới, tắm gội sạch sẽ, quét dọn phòng ốc, rồi đặt một bình đồng để trên tòa cao, và thành tâm dâng hương, cầu nguyện xá lợi Phật hiển hiện oai linh.

Qua bảy ngày, chẳng có cảm ứng gì, nên Ngài đành xin khất thêm bảy ngày nữa. Ðến ngày thứ mười bốn cũng không có điềm lành gì cả. Vì vậy, Ngô Tôn Quyền cho là điều dối trá, nên định ra lịnh gia tội, nhưng Ngài lại quyết tâm cầu thỉnh hoãn thêm bảy ngày nữa. Ngô Tôn Quyền chấp thuận. Tới chiều ngày thứ hai mươi mốt mà cũng chưa thấy hột xá lợi nào. Ðêm hôm đó, vào canh năm, đại chúng chợt nghe có tiếng leng keng trong bình đồng. Mở ra, thấy xá lợi đã xuất hiện trong đó. Sáng hôm sau, Ngài đem xá lợi chiếu năm màu rực rỡ trong bình, trình lên Ngô Tôn Quyền. Tất cả triều thần đều tụ hội để xem xá lợi. Họ chỉ thấy ánh sáng năm màu vi diệu tỏa ra từ trong bình đồng. Ngô Tôn Quyền tự tay cầm lấy bình chứa xá lợi, rồi đổ xá lợi lên mâm đồng. Hạt xá lợi vừa rơi xuống thì mâm đồng liền bị bể tan. Chứng kiến tận mắt việc này, Ngô Tôn Quyền kinh hãi, khởi tâm cung kính, nói:

- Thật là điềm hy hữu!

Ngài bèn bảo:

- Oai thần xá lợi chẳng phải chỉ có tỏa sáng năm màu thôi Dẫu bỏ vào lửa, mà lửa chẳng cháy đặng. Dẫu có dùng chày kim cang đập mãi, mà không có thể làm tan nát!

Nghe lời này, Ngô Tôn Quyền để xá lợi trên cái đe bằng sắt, rồi sai đại lực sĩ dùng chùy sắt mà đập. Bấy giờ, Ngài khấn niệm:

- Phật pháp vừa hiển lộ. Thiên hạ vừa mới sanh tâm ngưỡng mộ ân trạch của chánh giáo. Ngưỡng vọng thị hiện thêm thần tích oai linh cảm ứng!

Ðại lực sĩ đập mãi, mà chỉ thấy cái đe bị lún xuống, còn xá lợi thì không sứt mẻ chút nào, và vẫn tỏa ánh hào quang sáng ngời. Thấy điềm linh dị rõ ràng, Ngô Tôn Quyền tán thán vô ngần, rồi bèn ra lịnh cho xây tháp tự ngay lập tức. Ðó là ngôi chùa đầu tiên được kiến lập tại Giang Nam, được gọi là Kiến Sơ, cũng gọi là Kiến Phật. Ngô Tôn Quyền cũng đổi tên vùng đất xung quanh chùa là Phật Ðà Lý. Phật pháp nhờ đó mà phát khởi hưng thạnh.

Ngô Tôn Quyền mất, Ngô Lâm lên chấp chính vào năm 256. Ngô Lâm chuyên quyền vô độ, giết hại tăng sĩ, đập phá chùa chiền, bức hại tín ngưỡng của quần chúng. Vì hành vi tàn ác, cuối cùng Tôn Lâm bị giết chết, và Tôn Hạo lên ngôi (264-280). Giống như Tôn Lâm, tánh tình của Tôn Hạo cũng thô bạo, kiêu căng, cùng lạm dụng quyền thế. Tôn Hạo ra lịnh phá rất nhiều đền miếu, và đốt phá chùa chiền. Ngô Tôn Hạo bảo với quần thần:

- Chùa chiền Phật giáo sao lại được lập nhiều quá lắm? Nếu giáo nghĩa Phật giáo tương hợp với thánh điển thì có thể phụng hành và bảo tồn. Nếu chỉ là hư ngụy thì phải nên đốt sạch.

Quần thần bèn phân trần ngăn cản:

- Oai thần Phật lực vô biên. Ðức Phật không đồng với những dị thần khác. Ngài Khương Tăng Hội dùng tâm chí thành mà cảm chiêu điềm lành linh ứng, nên Ngô Ðại Ðế mới cho xây chùa chiền. Nếu tùy tiện hủy hoại, thì e rằng sau này hối hận không kịp!

Nghe quần thần can gián, Ngô Tôn Hạo không biết thật hư, nên phái đại thần Trương Dục đến chùa Kiến Sơ, chất vấn ngài Khương Tăng Hội. Vốn là kẻ cơ trí biện tài, trước khi đến chùa, đại thần Trương Dục chuẩn bị những câu hỏi hiểm hóc, hầu mong làm xấu mặt ngài Khương Tăng Hội trước đại chúng. Song, Ngài tùy cơ ứng biến, đối đáp lưu loát, chẳng có chút gì thua kém. Bàn luận mãi từ sáng đến tối, Trương Dục vẫn không thể khuất phục nổi Ngài, nên đành phải cáo từ. Vừa bước ra cổng chùa, Trương Dục thấy một ngôi miếu ngay bên cạnh của chùa, nên bèn hỏi:

- Chánh giáo Phật pháp đã đắc được nhân tâm. Sao ngôi miếu đó lại còn nằm kế bên chùa chiền, khiến làm ô uế sự giáo hóa của Phật pháp?

Ngài bảo:

- Ví như sét đánh sấm nổ, khiến núi non tan vỡ. Song, dối với kẻ điếc, chẳng nghe âm thanh gì. Vì vậy, vấn đề là chẳng phải ở nơi tiếng sấm sét nhỏ hay lớn. Vạn vật nếu hòa cùng trời đất, thì dẫu có cách xa muôn dặm, cũng vẫn có điềm cảm ứng. Vì những ngôi đền miếu đó không đi đúng với chánh đạo, nên dẫu gần kề trong gang tấc mà không có cảm ứng được gì.

Trở về, Trương Dục thuật lại những lời đối đáp cho Ngô Tôn Hạo nghe, và tán thán Ngài là một vị tài trí cao nhân đệ nhất. Dẫu nghe như thế, Tôn Hạo vẫn không tin phục, nên hội tập quần thần và hiền sĩ tại triều đình, rồi cho người đem xe đi rước Ngài vào cung để chất vấn, hầu mong làm nhục Ngài trước bá quan văn võ. Ngài vừa đến, Tôn Hạo bèn hỏi:

- Nghĩa lý về thuyết nhân quả báo ứng của Phật giáo như thế nào?

Ngài đáp:

- Hiền minh quân chúa dùng nhân từ bác ái mà huấn dụ răn nhắc thế nhân, và dùng đạo đức nhân hòa để giáo hóa cùng trưởng dưỡng vạn vật. Gió hòa mưa thuận, vạn vật tốt tươi sinh sôi nẩy nở đều nhờ làm thiện mới có báo ứng điềm lành, còn thường làm ác thì không bao giờ có được như thế. Dẫu thế nhân không ai biết mình làm việc quấy, mà chẳng trốn khỏi tai mắt của lưới trời, và chung thân sẽ bị quỷ thần tru diệt. Làm việc ác mà người người đều biết, thì nhất quyết sẽ bị người giết hại. Kinh Dịch nói:" Tích thiện dư khánh", và Kinh Thi cũng nói:" Cầu thiện bất hồi". Ðây là thư điển của Nho giáo, nhưng cũng đồng dạng với những lời giáo huấn của Phật pháp.

- Ðạo lý này thật đúng, nhưng Chu Công, Khổng Tử đã từng chỉ dạy rõ rồi, thì giáo huấn của Phật đà còn tồn tại để làm gì?

- Các thuyết của Chu Công, Khổng Tử chỉ bàn về những việc thiển cận mà thôi. Lý thuyết của Phật giáo u huyền, thâm sâu vi tế. Phật thường dạy thế nhân nếu làm ác thì sẽ đọa vào địa ngục chịu bao thống khổ, và dạy người nếu thường hành việc thiện thì sẽ sanh lên cõi trời hưởng bao sự an lạc sung sướng dài lâu. Việc khuyến tấn hành thiện, ngăn trừ hành việc ác, chẳng phải là vấn đề trọng yếu sao?

Tôn Hạo bị Ngài hỏi ngược lại, mà chẳng có lời chi để đối đáp, nên đành tạm bãi trào. Tuy ông ta đã nghe chánh pháp, nhưng chẳng hiểu chi hết, và cũng không biết sám hối sửa đổi. Ngài than với tăng chúng:

- Tôn Hạo tánh tình thô bạo. Thật không có cách nào để giảng giải về nghĩa lý thâm sâu áo diệu của Phật pháp, hay khuyên nhủ báo ứng nhân quả cho ông ta nghe được. Tâm của ông ta trước sau vẫn u mê mờ mịt!

Lần nọ, các vệ sĩ trong vườn thượng uyển đào lên được một tượng Phật bằng vàng cao vài mươi thước. Tôn Hạo hay tin, bèn sai bọn họ để tôn tượng Phật nơi chỗ bất tịnh. Vào ngày lễ Phật đản, tức mồng tám tháng tư, thường có hội lễ tắm Phật. Vào ngày đó Tôn Hạo đến chùa cố ý làm nhơ tượng Phật, tự bảo: "Trẫm tắm Phật!" rồi cười riễu cợt với quần thần. Sau này, Tôn Hạo đột nhiên bị bịnh phù thủng đau nhức nhối, và âm bộ cũng bị sưng phù, khiến rên xiết kêu trời, nên cho vời thái sử vào chiêm bốc. Thái sử tâu:

- Ðây là bịnh do phạm đến chư đại oai thần!

Tôn Hạo lập tức sai người đi cầu đảo tại các đền miếu, nhưng bịnh trạng vẫn không thuyên giảm chút nào. Ðương thời, trong cung có một cung nữ rất chân thành tín phụng Phật pháp, nên bẩm tấu với Tôn Hạo:

- Xin Ðiện Hạ hãy đến chùa sám hối.

Bịnh tình đau khổ vô cùng cực, Tôn Hạo vẫn gắng gượng hỏi cung nữ:

- Pháp lực của Phật oai linh đến độ như vầy sao?

Cung nữ nói:

- Phật vốn là đại oai thần!

Nghe theo ý kiến của cung nữ, Tôn Hạo bèn sai người đem ra tôn tượng Phật bị ông ta làm ô nhiễm trước kia, và đặt tại cung điện, rồi cung kính dùng nước hương trầm mà tẩy uế cả chục lần. Kế đến, Tôn Hạo dâng hương sám hối, cùng quỳ lạy, khẩn thành tự trần thiết những tội trạng. Nhờ vậy mà bịnh tình thuyên giảm rất nhiều. Tôn Hạo bèn đến chùa, thỉnh cầu Ngài thuyết pháp. Ngài cũng tùy thuận theo ý ông ta mà giải thích cặn kẽ những điểm tinh yếu của luật nhân quả cùng tội phước. Tự thân chứng nghiệm được nhân quả báo ứng, nên Tôn Hạo mới hiểu rõ những lời huấn dụ, nên rất vui mừng, rồi cầu Ngài cho phép xem giới luật của sa môn. Ngài bảo rằng giới luật đó chỉ dành cho những người xuất gia, chứ người thế tục không thể khinh xuất xem được. Song, Ngài lấy ra một trăm ba mươi lăm lời nguyện trong kinh Bổn Nghiệp, rồi phân thành hai trăm năm mươi việc, để lúc đi đứng nằm ngồi, đều nguyện làm lợi ích cho chúng sanh, và đưa cho Tôn Hạo. Vừa xem qua những lời nguyện từ bi thiện ích đó, Tôn Hạo bèn cầu thỉnh Ngài truyền năm giới cấm. Vài ngày sau thì bịnh của Tôn Hạo thuyên giảm hoàn toàn. Từ đó, Tôn Hạo cho người sửa sang chùa chiền và đổi tên chùa của ngài Khương Tăng Hội thành chùa Thiên Tử. Ông lại hạ lịnh cho quần thần và tông quyến đồng tín phụng Phật pháp. Nhờ tự thân cảm nghiệm rõ sự linh ứng của nhân quả báo ứng và nhờ những lời giảng dạy của ngài Khương Tăng Hội, mà Tôn Hạo mới chuyển tánh hung bạo thành hiền lương. Tâm thức của ông ta cũng được khai mở.

Theo quyển 'Xuất Tam Tạng Ký Tập' thì ngài Khương Tăng Hội dịch những bộ kinh như sau: Kinh A Nan Niệm Di, Kính Diện Vương, Sát Vi Vương, Phạm Hoàng Vương, Ðạo Phẩm, Lục Ðộ Tập, v.v... Ngoài ra, Ngài còn chú giải, soạn viết lời tựa cho kinh An Ban Thủ Ý, Pháp Cảnh, Ðạo Thọ, v.v...

Ngài Ðạo An có ghi:" Tích xưa, Nghiêm Phật Ðiều soạn Sa Di Thập Huệ Chương Cú. Khương Tăng Hội hội tập Lục Ðộ yếu mục, cùng kinh Ngô Phẩm."

Lục Ðộ Yếu Mục của ngài Khương Tăng Hội hiện nay vẫn còn: 1/ Bố Thí Ðộ Vô Cực Chương; 2/ Giới Ðộ Vô Cực Chương; 3/ Nhẫn Nhục Ðộ Vô Cực Chương; 4/ Tinh Tấn Ðộ Vô Cực Chương; 5/ Thiền Ðộ Vô Cực Chương; 6/ Minh Ðộ Vô Cực Chương. Ðó là lục độ ba la mật mà bao ức kiếp trong đời quá khứ, đức Phật đã từng thật tiễn hành trì.

Trong các quyển kinh do Ngài dịch và chú giải hay soạn viết lời tựa, như kinh An Ban Thủ Ý, kinh Pháp Kính, kinh Tạp Thí Dụ, Tiểu Phẩm, v.v... văn từ rất điêu luyện tinh mật, khiến ai ai đọc qua cũng lấy làm thán phục. Ngoài ra, Ngài còn giảng giải về kinh Phạm Hoàng, Sát Vi Vương, Kính Diện Vương, A Nan Niệm Di.

Ngài Khương Tăng Hội tịch vào đời Tấn Võ Ðế, niên hiệu Thái Khang nguyên niên (280).

Vào thời Tam Quốc, do sự phiên dịch và chú giải của ngài Khương Tăng Hội, tư tưởng Phật học được lưu truyền rộng rãi, và ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc tu học của quần chúng, cùng việc xây cất chùa chiền của chư tăng người Tàu.

Phật giáo ở đời Ðông Hán như Sở Vương Anh hay Hán Hoàn Ðế, chỉ hạn cuộc trong việc xây cất chùa chiền, tạo tượng Phật, hoặc hành sự theo những nghi thức cổ truyền, còn việc phiên dịch kinh điển thì chưa được phát triển cho lắm. Khởi đầu sự nghiệp phiên dịch kinh điển tiểu thừa là ngài An Thế Cao, và phiên dịch kinh đại thừa là ngài Chi Lâu Ca Sấm, mà kế thừa sự nghiệp này là ngài Khương Tăng Hội và Chi Khiêm. Những bộ kinh về thiền học và số học của ngài An Thế Cao sau này được kế thừa tương tục bởi các ngài An Huyền, Nghiêm Phật Ðiều, Nam Dương Hàn Lâm, Ðãnh Xuyên Bì Nghiệp, Hội Kê Trần Huệ, Khương Tăng Hội, v.v...

Ngài Khương Tăng Hội xuất thân từ Việt Nam, lại thông suốt văn hóa cùng văn chương nước Tàu, nên lẽ đương nhiên là trong lúc phiên dịch kinh điển, ngài mong muốn dung hợp tư tưởng Phật giáo với tư tưởng người Tàu. Ví dụ, trong bài tựa về kinh An Ban Thủ Ý, ngài Khương Tăng Hội dùng rất nhiều thuật ngữ của Lão Trang.

Nhờ hai nhà đại dịch giả An Thế Cao và Chi Khiêm mà giáo lý tiểu thừa được lưu truyền rộng rãi. Ngoài ra, giáo lý đại thừa Bát Nhã học được khởi xướng từ hai nhà đại dịch giả là Chi Lâu Ca Sấm và Khương Tăng Hội.

Tuy cha mẹ gốc là người Khương Cư, nhưng ngài Khương Tăng Hội được sanh ra và trưởng thành ở Việt Nam (Giao Châu). Vì vậy, không giống với các vị thần tăng người Thiên Trúc, Tây Vực, v.v... ngài Khương Tăng Hội vốn là người Việt Nam, xuất gia đắc đạo, thắp lên ngọn đuốc thiền tông cùng giáo lý đại thừa ở Việt Nam, rồi dẫn chư đệ tử sang truyền bá Phật pháp ngay trên đất Tàu. Nhờ công lao của Ngài mà Phật giáo vùng Giang Nam mới được phát khởi hưng thạnh. Do đó, công nghiệp truyền bá Phật pháp của ngài Khương Tăng Hội ảnh hưởng lớn lao đối với lịch sử Phật giáo Trung Quốc. Ngọn đuốc chánh pháp do Ngài truyền sang, mãi mãi chiếu soi trong tâm thức của người Tàu. Dĩ nhiên, oai danh tài đức của Ngài đã tô đậm nét son vàng cho lịch sử Phật giáo Việt Nam. Ngài là vị đại diện cho biết bao vị cao tăng khác ở Việt Nam sang Trung Thổ truyền bá chánh pháp, và dạy đạo cho các vua chúa cùng dân chúng người Tàu, như pháp sư Phụng Ðình (vào giảng kinh trong cung vua Ðường), pháp sư Duy Giám (sang giảng kinh trong cung vua Ðường), v.v... Thật vậy, nhờ địa thế mà Phật giáo được du nhập vào nước Việt Nam sớm hơn nước Tàu. Ðiều này được cuốn Phật Giáo Việt Nam Sử Luận chứng minh rõ ràng:

"Trung tâm Luy Lâu (ở Giao Châu) được thành lập sớm nhất và trung tâm này đã làm bàn đạp cho sự thành lập các trung tâm Bành Thành và Lạc Dương ở Trung Hoa".

Bàn về địa thế, trong những năm dài tối tăm bị đô hộ, Việt Nam (Giao Châu) là thương cảng quan trọng nhất của đế quốc phương bắc từ đời Tiền Hán đến đời Ðường (111 t.TL - 907 s.TL). Theo thầy Thích Ðông Sơ trong quyển Trung Ấn Phật Giáo Giao Thông Sử thì sự giao thương giữa nước Tàu và Ấn Ðộ vào những thế kỷ trước và sau tây lịch qua ba con đường chính: Thứ nhất là theo con đường lụa (silk route), tức là từ Ấn Ðộ, vượt ngọn Thông Lĩnh, đi về hướng đông, qua các nước ở Tây Vức như Kế Tân, Vu Ðiền, băng ngang các bãi sa mạc, rồi vào Cô Tạng hay Lương Châu, để đến Trường An hoặc Lạc Dương. Trên đất liền, đây là tuyến đường mà chư tăng người Ấn Ðộ thường dùng nhất. Thứ hai là từ Ấn Ðộ, đi ngang qua Miến Ðiện, rồi vào Vân Nam. Song, tuyến đường này rất ít người dùng đến. Thứ ba là đường biển. Xuất phát từ Ấn Ðộ Dương, các chư tăng người Ấn Ðộ hay Tây Vực thường theo thương thuyền mà đến Việt Nam (Giao Châu), trước khi vào đất Tàu. Ngoài ra, các nước ở Nam Hải như Phù Nam (Cam Bốt), Sư Tử (Tích Lan), v.v... và ngay cả đế quốc La Mã, muốn giao dịch với người Tàu đều qua đến Việt Nam (Giao Châu) bằng đường biển trước nhất, rồi mới đi vào lục địa. Theo sách truyện về nước Thiên Trúc cùng Tây Vực vào đời Hậu Hán (Hậu Hán thư Tây Vực Truyện Thiên Trúc Truyện), viết:" Trong đời vua Hòa Ðế (79-104), các nước Thiên Trúc cùng Tây Vực thường phái các đoàn sứ giả đem phẩm vật triều cống đến Nhật Nam."

Quyển truyện Ðại Tần thứ tư viết:" Nước Ðại Tần (nước Tàu) đã từng cùng với nước An Tức, Thiên Trúc giao thương với nhau bằng đường biển, mười phần đều có lợi ích. Các thương nhân cùng đoàn sứ giả thường đem ngà voi, sừng tê giác, v.v... đến Nhật Nam."

Nhật Nam tức là hai tỉnh Quảng Bình và Quảng Trị của Việt Nam hiện nay. Ðường Thư Ðịa Lý, tức là sách địa lý của nhà Ðường (618-907) viết:" Những đoàn sứ giả và thương nhân thuộc các nước ở vùng Hải Nam, nằm về hướng nam và hướng tây nam của Giao Chỉ, hoặc cách năm dặm, năm ngàn dặm, trăm ngàn dặm. Họ thường dùng thương thuyền mang hàng hóa trao đổi, hay lễ vật triều cống, và đều tới thương cảng ở Giao Chỉ, từ đời Hán Võ Ðế (206 t. TL) cho đến nay."

Lại nữa, theo hai ông Sylvain và Pelliot khảo cứu thì người Tàu và Ấn Ðộ khi giao thương với nhau đều lấy Việt Nam (Giao Châu) làm môi giới trung gian từ năm 245 trước tây lịch đến thế kỷ thứ bảy.

Ngoài ra, bấy giờ dân tộc Chàm (Champa) còn mạnh, mà họ chịu ảnh hưởng rất sâu nặng về nền văn hóa của người Ấn Ðộ. Họ thường dùng sách vở bằng tiếng Phạn, và thông thạo tiếng Qua Oa (Java). Dân Việt Nam sống gần với họ nên lẽ dĩ nhiên là có rất nhiều người thông thạo tiếng Phạn, và tiếng Tàu. Do đó, các đoàn truyền giáo từ Ấn Ðộ sang thường tìm đến người Việt Nam để nhờ thông dịch hay phiên dịch kinh điển chữ Phạn ra tiếng Tàu. Các ngài cũng thường đến đó để học chữ Tàu rồi bắt đầu khởi xướng công việc phiên dịch. Vì vậy, chẳng lấy làm ngạc nhiên cho lắm có rất nhiều bản kinh cựu dịch thường được dịch tại Việt Nam.

Thế nên, nhờ có chư tăng người Ấn Ðộ liên tục qua vùng viễn đông truyền bá đạo pháp trong thời bắc thuộc, mà nền Phật giáo tại Việt Nam vào thời sơ kỳ được ảnh hưởng trực tiếp từ Phật giáo Ấn Ðộ. Ðiển hình, là đầu thế kỷ thứ nhất, chư tăng người Ấn Ðộ từ các trung tâm Phật giáo đại thừa ở vùng duyên hải đông Ấn Ðộ như Nagarunakonda và Amaravati thường theo các thương thuyền để đến vùng Ðông Nam Á. Nếu muốn truyền bá Phật giáo vào nước Tàu, thì tất nhiên là các ngài phải đến Việt Nam (Giao Châu) trước nhất, rồi mới đi vào lục địa. Ðến nơi, các ngài phiên dịch kinh điển, thành lập tăng đoàn, rồi từ từ truyền bá Phật pháp vào nước Tàu, Cao Ly.

Vì vậy, với địa thế thuận lợi, Việt Nam đã sớm tiếp thọ Phật giáo chánh truyền trực tiếp từ chư tăng người Ấn Ðộ trong thời bắc thuộc từ đời Tiền Hán cho đến đời Ðường, rồi dùng nguồn sinh lực và lẽ nhiệm mầu của Phật pháp làm nơi nương tựa cho tâm linh, chứ không bị giáo điều Khổng - Mạnh của người phương bắc nhồi nhét đồng hóa để làm nô lệ như những dân tộc khác. Chẳng những không bị đồng hóa mà các vị cao tăng người Việt Nam lại đem ngọn đuốc chánh pháp truyền vào tận triều đình của người Tàu.

Ngoài ra, trong ba thời kỳ bắc thuộc (111 tr.TL - 39 s.TL, 43-544, 603-939), ở Việt Nam có rất nhiều vị cao tăng sang Thiên Trúc để tầm cầu Phật pháp, như thiền sư Vận Kỳ, ngài Mộc Xoa Ðề Bà, pháp sư Khuy Xung, pháp sư Huệ Diệm, pháp sư Giải Thoát Thiên. Lại nữa, các chư tăng người Tàu cũng thường đến Việt Nam (Giao Châu) để lên thuyền sang Thiên Trúc và Tây Vực cầu pháp điển hình là thầy Huệ Mạnh, Ðàm Nhuận, Trí Hoằng, v.v...

Tựu chung, nhờ hấp thụ tinh hoa của Phật pháp, nhất là thiền pháp, từ lúc ngài Khương Tăng Hội chú giải thiền kinh An Ban Thủ Ý, đến khi thiền sư Tỳ Ni Ða Lưu Chi (?-602) truyền bá cùng sáng lập thiền tông mà tư tưởng của dân tộc Việt Nam luôn được rèn luyện huân tập với ý chí tự lập kiên cường. Ðây là điểm then chốt trưởng dưỡng hun đúc ý thức tự chủ, độc lập của dân tộc Việt Nam trong bao năm bị đế quốc phương bắc đô hộ, để rồi gặp thời điểm thuận tiện, giành lại chủ quyền vào năm 939.

Ðiển hình, nhờ tiếp thu tinh ba của Phật pháp, tại Việt Nam đã sớm xuất sanh những vị cao tăng tài đức, như Ngô Chân Lưu, Vạn Hạnh, Pháp Thuận, v.v... Các ngài đã hỗ trợ và làm quân sư cho những vị minh quân như Ðinh Tiên Hoàng, Lê Ðại Hành, Lý Thái Tổ để lèo lái con thuyền quốc gia ra chốn bùn nhơ nô lệ, giành lại chủ quyền độc lập cho dân tộc, rồi xây dựng những triều đại nhân từ và hưng thịnh nhất trong lịch sử nước nhà, qua suốt bốn đời Ðinh, Lê, Lý, Trần (939-1400).

9. Chi Cương Lương Tiếp

Ngài Chi Cương Lương Tiếp (dịch là Chánh Vô Úy) vốn là người nước Ðại Nhục Chi, dịch sáu quyển kinh Pháp Hoa Tam Muội tại Giao Châu (Việt Nam) vào đời Tào Ngụy, niên hiệu Cam Lộ nguyên niên (256). Theo quyển Lịch Ðại Tam Bảo Ký, có một vị tăng người nước Ðại Nhục Chi tên là Cương Lương Lâu Chí (Kalyanaruci) đến Phiên Ngu ở Quảng Châu vào năm 266, và dịch bộ Thập Nhị Du Kinh. Theo ông Pelliot tra cứu thì hai người đó chỉ là một vị.

 

10. Ma Ha Kỳ Vực (Mahajivaka)

Theo quyển Lương Cao Tăng Truyện thì ngài Ma Ha Kỳ Vực vốn là người Thiên Trúc. Ngài đi từ Thiên Trúc sang Phù Nam (Cam Bốt), qua Giao Châu (Việt Nam), rồi đến Quảng Châu vào cuối đời Tấn Huệ Ðế (290-306). Lần nọ, lúc đến Tương Dương, Ngài muốn lên đò qua sông. Song, chủ đò thấy Ngài ăn mặc rách rưới nên không cho lên. Ðò vừa cặp bến sông thì thấy Ngài đã đứng trên bờ sông cùng với hai con hổ. Mọi người đều kinh hoàng. Từ đó, có rất nhiều người đi theo Ngài học đạo. Ðến Lạc Dương, Ngài dùng những phương pháp trị bịnh thần dị để chữa những bệnh nan y, khiến cho các bệnh nhân đều được bình phục. Về sau, vì chiến loạn nên Ngài rời Lạc Dương, trở về Thiên Trúc. Trong quyển Cổ Châu Pháp Vân Phật Bổn Hạnh Ngữ Lục (tập truyện viết về sử Phật giáo Việt Nam), thiền sư Viên Chiếu có ghi: "Trong thời Hán Linh Ðế thống trị nước ta (Việt Nam), có một vị tăng tên là Kỳ Vực, dẫn theo một đệ tử là Khâu Ðà La. Ngài Kỳ Vực tay cầm cành dương chi, đi khắp các nơi. Cuối cùng đến đất Luy Lâu. Nơi đó, có một vị thường tu thiền định. Ông ta thỉnh mời hai thầy trò ngài Kỳ Vực vào nhà nghỉ ngơi. Song, chỉ có Khâu Ðà La là lưu lại, còn ngài Kỳ Vực thì tiếp tục đi về hướng đông. Một tháng sau, Khâu Ðà La cũng từ biệt ra đi. Song, vị tu thiền định kia lập thệ nguyện tu hành theo Phật giáo mà lưu giữ Khâu Ðà La ở lại. Khâu Ðà La thường đứng một chân tụng kinh liên tục suốt bảy ngày. Về sau, Khâu Ðà La an nhiên mà tịch. Mọi người nghe ở phía tây có âm thanh vang dội, nên đồng tìm đến. Cuối cùng, họ phát hiện một quyển kinh dưới tàng cây lớn (nơi Khâu Ðà La thường đứng tụng kinh)."

 

11. Chi Khiêm

Chi Khiêm tự Cung Minh, biệt danh là Việt, xuất thân từ nước Ðại Nhục Chi. Thời Hán Linh Ðế, tổ phụ dẫn cả trăm người sang nơi đất Hán, nhân đó đổi tên thành Chi. Chi Khiêm vốn là ưu bà tắc tại gia. Năm mười tuổi học kinh thư, có trí thông minh mẫn tiệp hơn người. Năm mười ba tuổi học sách vở tiếng Phạn, cùng thông thạo ngôn ngữ của sáu nước. Ðời Hán Linh Ðế, đệ tử của ngài Chi Sấm là Chi Lượng sang Trung Thổ. Chi Khiêm bèn theo Chi Lượng học Phật pháp. Cuối đời Ðông Hán, Chi Khiêm chạy loạn đến nước Ngô. Tưởng vào nam lánh nạn, nhưng vẫn gặp khổ ách. Ðương thời, Chi Khiêm cùng vài mươi người đồng hương qua đất Ngô. Họ phải đắp chăn ngủ trên đường lộ. Trong nhóm có một người khách; ông ta không có chăn để đắp. Thấy trời lạnh lẽo, Chi Khiêm gọi ông ta qua cùng đắp chăn để đỡ lạnh. Giữa đêm, người khách kia, lén lấy chăn ngủ của Chi Khiêm đi mất. Ðến sáng, các người đồng hành thấy thế, bèn hỏi Chi Khiêm rằng chăn đắp đâu mất rồi. Chi Khiêm đáp:

- Ðêm hôm qua người khách lạ đã lấy mất!

Họ hỏi:

- Sao không la lên?

- Nếu tôi la lên thì các vị chắc phải bắt trói hay gia hình phạt kẻ trộm. Sao chỉ vì một tấm chăn mà làm lụy đến mọi người, hay giết hại kẻ khác!

Ngô Tôn Quyền nghe tiếng bác học, tài năng trí huệ xuất chúng, nên triệu Chi Khiêm vào hầu cận, lại hỏi vấn về nơi thâm áo của Phật pháp. Chi Khiêm tùy theo căn cơ ứng đáp minh bạch trôi chảy những kinh điển khó hiểu cùng bao nghi vấn. Nghe qua, Ngô Tôn Quyền rất vui mừng, bèn bổ nhậm Chi Khiêm làm Bác Sĩ, đảm nhậm bổ đạo đông cung. Ðương thời, đã có rất nhiều kinh điển được truyền vào đất Ngô, nhưng hầu hết đều là kinh tiếng Phạn, nên dân chúng khó mà hiểu nghĩa lý. Do thông tiếng Tàu và tiếng Phạn, cùng ngôn ngữ của sáu nước, nên Chi Khiêm gom góp nhiều loại kinh lại rồi tự phiên dịch ra tiếng Tàu. Chi Khiêm phiên dịch khoảng hai mươi bảy bộ kinh, cùng chú thích các bộ kinh như Liễu Bổn Sanh Tử. Lúc thái tử lên ngôi, Chi Khiêm vào ẩn cư nơi núi Khung Ải, bỏ qua hết tất cả việc ở thế gian. Chi Khiêm cũng theo ngài Trúc Pháp Lan mà thọ năm giới, và trú nơi đó sáu mươi năm cho đến lúc qua đời.

Theo quyển 'Xuất Tam Tạng Ký Tập', từ đời Ngô Tôn Quyền, niên hiệu Hoàng Võ (222) đến đời Ngô Tôn Lượng, niên hiệu Kiến Hưng (252-253), Chi Khiêm dịch hơn ba mươi quyển kinh như sau: Ðại Bát Nê Hoàn (2 quyển), Ðoan Ứng Bổn Khởi (2 quyển), Tiểu A Sai Mạt (2 quyển), Huệ Ấn (1 quyển), Bổn Nghiệp (1 quyển), Pháp Cú (2 quyển), Tu Lại (1 quyển), Tư A Mạt (1 quyển), Vi Mật Trì (1 quyển), A Di Ðà (2 quyển), Nguyệt Minh Ðồng Tử (1 quyển), Nghiệp Túc (2 quyển), A Nan Tứ Sự (1 quyển), Sai Ma Kiệt (1 quyển), Ưu Ða La Mẫu (1 quyển), Thất Nữ (1 quyển), Bát Sư (1 quyển), Thích Ma Nam (1 quyển), Bột Sao (1 quyển), Minh Ðộ (4 quyển), Lão Nữ Nhân (1 quyển), Trai Kinh (1 quyển), Tứ Nguyện (1 quyển), Hối Quá (1 quyển), Hiền Giả Ðức (1 quyển), Phật Ðồ Thượng Sở Hành Tam Thập Kệ (1 quyển), Liễu Bổn Sanh Tử (1 quyển), Duy Minh Nhị Thập Kệ (1 quyển). Ðấy là những kinh điển do Chi Khiêm dịch, và được ngài Ðạo An liệt kê. Theo Tăng Hữu thì Chi Khiêm có dịch thêm sáu bộ kinh khác như kinh: Thủ Lăng Nghiêm (2 quyển), Long Thi Nữ (1 quyển), Pháp Kính (2 quyển), Lộc Tử (1 quyển), Thập Nhị Môn Ðại Phương Ðẳng (1 quyển), Lại Trá Hòa La (1 quyển).

Cách diễn dịch lời kinh của Chi Khiêm rất uyển chuyển, lưu loát. Trước kia, đa số các kinh điển được phiên dịch đều có rất nhiều từ ngữ tiếng Phạn, nên rất khó đọc. Sau này, Chi Khiêm dịch lời kinh theo ý tưởng của mình rồi kiểm thảo lại để phù hợp với ý của văn kinh. Nếu ý tưởng phiên dịch phù hợp với văn kinh thì duy trì nguyên văn, không sửa thêm gì, nên lời văn rất ít có chữ Phạn.

 

12. Ngài Duy Ðề Nan (Vighna)

Ngài Duy Ðề Nan, vốn người Thiên Trúc, gia thế tín phụng thờ lửa ngoại đạo. Lần nọ, một vị sa môn tu giáo tiểu thừa, nhưng thường hành đạo thuật, đi hành khất gặp trời sẩm tối. Lúc đến nhà của Duy Ðề Nan, vị sa môn này định xin tá túc qua đêm. Vì gia đình của ngài Duy Ðề Nan tin theo ngoại đạo, nên hiềm nghi vị sa môn kia, không cho trú trong nhà. Vị sa môn kia bèn nghỉ qua đêm bên ngoài đường lộ. Ðêm ấy, vị sa môn kia tụng trì thần chú, khiến lửa trong nhà của ngài Duy Ðề Nan đều tắt hết. Hoảng sợ, gia đình của ngài Duy Ðề Nan bèn chạy ra, thỉnh cầu vị sa môn kia vào nhà để cúng dường. Vị sa môn kia bèn trì tụng thần chú, khiến lửa cháy trở lại. Mục kích năng lực thần dị thù thắng này, ngài Duy Ðề Nan liền khởi tâm tín phụng Phật pháp, rồi lại bỏ nhà xuất gia tu đạo, theo vị tỳ kheo kia học tập ba tạng giáo điển, giỏi nơi kinh Tứ A Hàm. Sau này, ngài Duy Ðề Nan đi du hóa khắp các nước.

Ðến đời Ngô Hoàng Võ (224), ngài Duy Ðề Nan cùng với đồng học là Trúc Luật Viêm cùng đến Võ Xương, đem theo kinh Ðàm Bát bằng chữ Phạn, tức kinh Pháp Cú. Ðương thời, Ngô Sĩ thỉnh cầu dịch kinh. Tuy ngài Duy Ðề Nan và Trúc Luật Viêm chưa thông thạo tiếng Tàu, nhưng vẫn cố gắng phiên dịch, giữ nguyên bổn ý, nên văn từ rất chất phác thô sơ. Ðến cuối đời Tấn Huệ, có sa môn Pháp Lập dịch lại thành năm quyển, và sa môn Pháp Cự ghi chép lại.

 

13. Ngài Bạch Thi Lê Mật Ða La (Srimitra)

Ngài Bạch Thi Lê Mật Ða La, hay Thi Lê Mật (dịch là Kiết Hữu) người Tây Vực. Người đương thời thường gọi Ngài là 'Cao Tọa Pháp Sư'. Ngài vốn là thầy của đại phiên dịch gia của đời Tây Tấn, tức là ngài Trúc Pháp Hộ. Thế thì ngài Thi Lê Mật (hay Trúc Cao Tọa) vĩ đại biết chừng nào! Ngài Thi Lê Mật vốn là hoàng tử nước Tây Vực, nhưng lại nhượng vương vị cho người em, rồi âm thầm nghiên cứu Phật pháp, sau lại lãnh hội đại đạo, nên xuất gia làm sa môn. Ngài có thiên tư cao minh xuất chúng, chẳng đồng với phàm phu.

Ðời Tây Tấn Hoài Ðế, trong niên hiệu Vĩnh Gia (307-312), Ngài đến Trung Thổ. Ðương thời, gặp lúc ngũ Hồ mười sáu nước đang phân tranh, nên Ngài vượt sông Trường Giang, vào miền nam, đến tạm trú tại chùa Kiến Sơ (trong thành Nam Kinh). Thừa tướng Vương Ðạo vừa gặp Ngài bèn cảm giác đây chẳng phải là kẻ phàm phu, mà nhận là 'Ngã Bối Trung Nhân (người bạn thân đắc ý)'. Từ đó, thanh danh của Ngài vang dội, nên thường qua lại tương giao với các quan thần và nhà danh sĩ quý phái, như Dữu Lượng, Chu Dĩ, Tạ Côn, Vương Ðôn, v.v...

Người đương thời muốn bình luận về Ngài, nhưng trước sau chẳng có cách gì để nghị luận. Thời nhân Hoàng Di đem việc này hỏi Chu Dĩ. Chu Dĩ đáp:

- Ngài Thi Lê Mật là một nhân vật cao siêu thanh thoát.

Hoàn Di cũng bảo:

- Lúc trẻ, tôi đã từng gặp được ngài Thi Lê Mật. Tinh thần của Ngài dồi giàu sung túc; thật là một nhân vật kiệt xuất, khiến người người đều bội phục.

Người gặp Ngài trước nhất là Vương Ðạo (267-330). Vương Ðạo vốn là trung thần của Tấn Nguyên Ðế, Tấn Minh Ðế, Tấn Thành Ðế, và là tể tướng của Ðông Tấn Thành Ðế. Lúc Vương Ðạo đến nơi trụ xứ, thăm viếng, Ngài bèn bỏ y ngoài và quăng xuống đất, rồi nói chuyện với ông ta. Vương Ðạo đến chẳng bao lâu thì Biện Khổn cũng đến viếng thăm Ngài. Lúc Biện Khổn sắp đến, Ngài bèn chỉnh đốn dung nghi, ngồi ngay ngắn mà đợi ông ta. Người khác thấy vậy, bèn hỏi tại sao Ngài có cử chỉ khác lạ như thế. Ngài bảo:

- Vương Ðạo thích 'phong thần siêu dật'. Biện Khổn thì xem dung nghi mà phán đoán người. Vì vậy nên Ta mới có hai thái độ khác nhau.

Do đó, người đương thời tán thán là Ngài biết dụng pháp để thích hợp với người đối diện.

Tánh tình của Ngài rất rộng rãi bao dung, không câu nệ tiểu tiết. Lúc đến Trung Thổ, Ngài không học tiếng Tàu, nên người nào muốn đàm luận với Ngài đều phải cần có dịch giả. Song, thường thường không đợi dịch giả phiên dịch, mà Ngài có thể hiểu rõ lời nói của người đối diện, tức có khả năng biết tâm lý của người đó.

Chu Di (269-322) cũng thường qua lại với Ngài. Chu Di là người có thần thái sáng suốt, phong lưu tài hoa. Chu Di vốn là quan Bộc Xạ, nên thường tuyển chọn nhân tài để đưa vào triều làm quan. Khi mới gặp Ngài, Chu Di bảo:

- Nếu là thời thái bình thạnh trị, thì phải tuyển chọn vị hiền nhân này, mà chẳng có ân hận gì!"

Sau này Chu Di bị Vương Bân giết, nên Ngài đến nhà phúng điếu. Ngài ngồi đối diện với con cái của Chu Di, miệng tụng tiếng Phạn; âm thanh trong trẻo vang thấu thiên đình. Ngài lại tụng niệm hàng ngàn câu mật chú, và âm hưởng cũng vang xa, mà sắc mặt vẫn như bình thường. Tụng xong, Ngài lau nước mắt, thần sắc an nhiên bình thường, không lộ chút buồn thương. Ðối với vui buồn, giận tức, Ngài chẳng để trong tâm. Vương Ðạo thường nói:

- Ngoại quốc chỉ có một hiền tài này mà thôi!

Ðại tướng quân Vương Xứ Xung nghe Vương Ðạo, Chu Di, v.v... đều tán thán Ngài, nên đến bái kiến. Vừa gặp mặt Ngài thì ông ta bèn khởi tâm sùng kính.

Cháu của Vương Ðạo là Vương Mẫn đã từng theo học mật chú với Ngài, và thường nghe sa môn Tăng Già Ðề Bà giảng kinh. Vương Mẫn thường viết lời tựa cho kinh điển.

Ngài luôn tụng đọc thần chú, rất là linh nghiệm. Trước kia, tại vùng Giang Ðông chưa từng có chú pháp. Nhờ Ngài dịch quyển kinh "Khổng Tước Vương' mà chú pháp mới được giới thiệu đến quần chúng Phật tử. Trong quyển 'Xuất Tam Tạng Ký Tập' ghi hai quyển kinh về mật chú do Ngài dịch là Ðại Khổng Tước Vương Thần Chú, và Khổng Tước Vương Tạp Thần Chú. Ngoài ra, Ngài còn dịch nhiều bộ kinh về mật giáo. Hiện tại, trong quyển thứ hai mươi mốt của Ðại Chánh Tân Tu còn ghi lại mười quyển do Ngài phiên dịch như sau: 1/ Phật Thuyết Quán Ðảnh Thất Vạn Nhị Thiên Thần Vương Hộ Tỳ Kheo Ny Chú kinh; 2/ Phật Thuyết Quán Ðảnh Thập Nhị Vạn Thần Vương Hộ Tỳ Kheo Ny Kinh; 3/ Phật Thuyết Quán Ðảnh Tam Quy Y Ngũ Giới Ðái Bội Hộ Thân Chú Kinh; 4/ Phật Thuyết Quán Ðảnh Bách Kết Thần Vương Hộ Thân Chú kinh; 5/ Phật Thuyết Quán Ðảnh Chú Cung Trạch Thần Vương Thủ Trấn Tả Hữu Kinh; 6/ Phật Thuyết Quán Ðảnh Trủng Mộ Nhân Duyên Tứ Phương Thần Chú Kinh; 7/ Phật Thuyết Quán Ðảnh Phụ Ma Phong Ấn Ðại Thần Chú Kinh; 8/ Phật Thuyết Quán Ðảnh Ma Ni La Ðản Ðại Thần Chú Kinh; 9/ Phật Thuyết Quán Ðảnh Triệu Ngũ Phương Long Vương Nhiếp Dịch Ðộc Thần Chú Thượng Phẩm Kinh; 10/ Phật Thuyết Quán Ðảnh Phạm Thiên Thần Sách Kinh; 11/ Phật Thuyết Quán Ðảnh Tùy Nguyện Vãng Sanh Thập Phương Tịnh Ðộ Kinh; 12/ Phật Thuyết Quán Ðảnh Bạt Trừ Quá Tội Sanh Tử Ðắc Ðộ kinh.

Ðến đời Ðông Tấn Thành Ðế, trong niên hiệu Hàm Khang (334-342) Ngài nhập tịch, thọ hơn tám mươi tuổi. Vì Ngài đã từng tu hạnh đầu đà tại Thạch Tử Võng, nên thi thể được an táng tại nơi đó. Chúng nhơn đương thời, nghe Ngài nhập tịch, nên rơi lệ thương tiếc. Ngưỡng mộ công đức giáo hóa của Ngài, vua Tấn Thành Ðế dựng tràng phan nơi phần mộ. Sau này, có một vị sa môn ngoại quốc sang Kinh Sư, rồi lập chùa ngay nơi phần mộ của ngài Thi Lê Mật. Tạ Côn ở Trần Quận hỗ trợ tiền tài để xây chùa, và để ghi nhớ công nghiệp của ngài Thi Lê Mật, nên gọi ngôi chùa đó là Cao Tọa Tự.

 

14. Ngài Trúc Pháp Hộ

Trước thời của ngài Cưu Ma La Thập, vị có công nhất trong việc truyền bá giáo lý đại thừa là đại dịch giả Trúc Pháp Hộ. Lại nữa, tuy có nhiều nhà dịch giả phiên dịch kinh điển thuộc loại bộ số, nhưng người có công nhiều nhất là ngài Trúc Pháp Hộ.

Ngài Trúc Pháp Hộ cũng được gọi là Ðàm Ma La Sát (Dharmaraksa), người nước Ðại Nhục Chi, gia thế cư trú ở quận Ðôn Hoàng, tám tuổi xuất gia, theo học đạo với ngoại quốc sa môn là Trúc Cao Tọa. Vì học đạo với sa môn người Thiên Trúc, nên lấy danh tánh là Trúc. Ngài thường tụng đọc kinh cả muôn chữ. Do lập chí học vấn, nên không màng gian khổ, đi muôn dặm tầm thầy học đạo. Ngài thông sáu bộ kinh, thấu suốt luận thuyết trăm tôn giáo, nên kiến thức rất uyên thâm. Ðối với thế nhân, dẫu bị khen chê, trách mắng, vẫn không động tâm. Thiên tánh nhu hòa, thuần hậu.

Vì biết tại kinh đô Lạc Dương chưa có các bộ kinh đại thừa như Phương Ðẳng, Bát Nhã, nên Ngài quyết tâm lập chí, hoằng dương đại đạo. Ngài theo thầy mình đi qua các nước ở Tây Vực, nên thông thạo ba mươi sáu ngôn ngữ, cùng tinh thông thể văn tự của Thiên Trúc và Tây Vực, lập nền tảng căn bản cho sự phiên dịch kinh điển sau này. Vì cầu kinh Bát Nhã, từ Ðôn Hoàng, Ngài qua nước Vu Ðiền.

Xưa kia, Châu Sĩ Hành đã từng sao chép lại nguyên bản chữ Phạn của kinh Bát Nhã tại nước Vu Ðiền. Ðương thời, Vu Ðiền vốn là trung tâm của Phật giáo đại thừa, được phát triển mạnh mẽ. Từ nước Vu Ðiền, Ngài lại tới Sa Lặc, rồi vòng qua phía bắc Tây Vực (đại lộ phía nam của núi Thiên Sơn), sang nước Quy Từ, lại trở về Ðôn Hoàng. Tại đạo tràng phiên dịch của Ngài có các cư sĩ người nước Quy Từ như Bạch Nguyên Tín, Bạch Pháp Cự, v.v...

Từ Tây Vực, Ngài mang rất nhiều kinh điển tiếng Phạn sang Trường An vào năm 266, rồi trở lại Ðôn Hoàng. Từ năm 274 đến năm 283, Ngài ẩn cư trong núi sâu rừng thẳm, tinh tấn hành đạo tại chùa Ngoại Kiến ở Thanh Môn, và dùng oai đức giáo hóa bốn phương đồ chúng, nên có hàng ngàn tăng đồ theo Ngài học đạo. Vào ngày mười bốn tháng mười năm 284, tại Ðôn Hoàng Ngài dịch xong bộ kinh Tu Hành Ðạo Ðịa và A Duy Việt Chí Giá. Năm 286, Ngài mang rất nhiều kinh điển tiếng Phạn trở qua Trường An. Vì trên đường, Ngài vừa đi vừa dịch kinh, nên khi đến Trường An thì dịch xong quyển kinh Phổ Siêu. Hơn hai mươi năm trường tại Trường An, Ngài hăng say tích cực dấn mình vào sự nghiệp phiên dịch kinh điển.

Ðời Tây Tấn Huệ Ðế, do loạn bá vương, chiến tranh giết chóc không ngừng. Lại nữa, Hồ tộc liên tục xâm nhập vào vùng Hoa Bắc, và vây hãm thành Lạc Dương. Vào tháng mười một niên hiệu Vĩnh Hưng nguyên niên (304), Huệ Ðế bị bức bách dời đô về Trường An. Quang Hi nguyên niên (306), vào tháng năm, Kỳ Tư thống lãnh quân Tiên Ti xâm nhập Trường An, giết hơn hai trăm ngàn người, khiến máu chảy đầy sông. Kinh thành Trường An trở nên hoang tàn. Bá tánh đói rách lầm than. Thiên hạ hỗn loạn cùng cực.

Tuy gặp thời loạn ly, nhưng Ngài vẫn không ngưng công cuộc phiên dịch kinh điển. Trong thời gian Ngài phiên dịch kinh điển, người sao chép là Pháp Cự. Giữa đời Huệ Ðế và Hoài Ðế (290-312), Pháp Cự dịch được kinh Lâu Thán, và cùng Pháp Lập dịch kinh Pháp Cú Dụ, kinh Phước Ðiền.

Y cứ theo quyển 'Xuất Tam Tạng Ký Tập', những bộ kinh do ngài Trúc Pháp Hộ phiên dịch vào đời Tây Tần như sau:

Kinh Ðời vua Niên Hiệu Năm Thời Gian

Tu Chân Thiên Tử Võ Ðế Thái Thủy-2 266 8/11-30/12

(tại Trường An)

Tỳ Kheo Ny Giới nt Thái Thủy-3 267 10/9

Tam Phẩm Hối Quá nt Thái Thủy-3 267 21/9

Phương Ðẳng Nê Hoàn nt Thái Thủy-5 269 23/10

Ðức Quang Thái Tử nt Thái Thủy-6 270 30/9

Bảo Tạng nt Thái Thủy-6 270 tháng 10

Văn Thù Sư Lợi Ngũ Thể

Hối Quá nt Thái Thủy-7 271 27/1

Trì Nhân Bồ Tát nt Thái Thủy-7 271 15/9

Nhạn Vương nt Thái Thủy-9 273 1/2

Tu Hành Ðạo Ðịa nt Thái Khang-5 284 23/12

(tại Ðôn Hoàng)

A Duy Việt Chí Giá nt Thái Khang-5 284 14/10

(tại Ðôn Hoàng)

Ðại Thiện Quyền nt Thái Khang-6 285 17/6

Hải Long Vương nt Thái Khang-6 285 10/7

Trì Tâm Phạm Thiên nt Thái Khang-7 286 10/3

(tại Trường An)

Chánh Pháp Hoa nt Thái Khang-7 286 10/8

Quang Tán Bát Nhã nt Thái Khang-7 286 25/11

(tại Trường An)

Phổ Chiếu nt Thái Khang-7 286 27/12

(tại Trường An )

Phổ Môn nt Thái Khang-8 287 11/1

Bảo Nữ nt Thái Khang-8 287 27/4

Mật Tích nt Thái Khang -9 288 8/10

Văn Thù Sư Lợi Tịnh

Luật nt Thái Khang-10 289 8/4

(tại Lạc Dương)

Ly Cấu Thi Nữ nt Thái Khang-10 289 2/10

Ma Nghịch nt Thái Khang-10 289 2/12

(tại Lạc Dương)

Pháp Một Tận nt Thái Hy-1 290 7/2

Cấp Cô Ðộc Minh Ðức nt Vĩnh Hy-1 290 cuối năm

Bảo Kế Huệ Ðế Vĩnh Hy-1 290 14/7

Tứ Phụ Dụ nt Vĩnh Bình-1 291 đầu năm

Mã Vương nt Vĩnh Bình-1 291 giữa năm

Phổ Nghĩa nt Vĩnh Bình-1 291 giữa năm

Lộc Mẫu nt Nguyên Khang-1 291 đầu năm

Dõng Phục Ðịnh nt Nguyên Khang-1 291 9/4

Ðộ Thế Phẩm nt Nguyên Khang-1 291 13/4

Ðại Ai nt Nguyên Khang-1 291 7/7

Như Lai Hưng Hiển nt Nguyên Khang-1 291 24/12

Quán Hạnh Bất Di Tứ

Sự nt Nguyên Khang-2 292 giữa năm

Thánh Pháp Ấn nt Nguyên Khang-4 294 25/12

(tại Tửu Tuyền)

Tiệm Bị Nhất Thiết Trí nt Nguyên Khang-7 297 21/11

(tại Trường An)

Hiền Kiếp nt Vĩnh Khang-1 300 21/10

(tại Trường An)

Ðại Tịnh Pháp Môn nt Vĩnh Ninh-1 301 26/3

Lâu Thán nt Thái An-1 302 23/1

Ngũ Cái Nghi Kết

Thất Hành nt Thái An-1 302 12/4

Bồ Tát Thập Trụ nt Thái An-1 302 3/10

Thuận Quyền Phương

Tiện nt Thái An-2 303 9/4

Ngũ Bách Ðệ Tử

Bổn Khởi nt Thái An-2 303 1/5

Phật Vi Bồ Tát Ngũ

Mộng nt Thái An-2 303 6/5

Như Huyễn Tam Muội nt Thái An-2 303 11/5

Di Lặc Bổn Nguyện nt Thái An-2 303 17/5

Xá Lợi Phất Hối Quá nt Thái An-2 303 20/5

Bào Thai nt Thái An-2 303 1/8

Thập Ðịa nt Thái An-2 303 4/12

Ma Ðiều Vương nt Thái An-3 304 18/1

Chiếu Minh Tam Muội nt Thái An-3 304 1/2

Sở Dục Chí Hoạn nt Vĩnh An-1 304 7/2

Nghiêm Tịnh Ðịnh nt Vĩnh An-1 304 18/2

Cổ Khách nt Vĩnh An-1 304 2/3

Canh Xuất A Xà

Thế Vương nt Vĩnh An-1 304 16/4

Diệt Thập Phương

Minh nt Kiến Võ-1 304 14/8

Nhân Sở Tùng Lai nt Vĩnh Hưng-2 305 25/1

Thập Ðẳng Tạng nt Vĩnh Hưng-2 305 28/1

Nhạn Vương Ngũ Bách

Nhạn Câu nt Vĩnh Hưng-2 305 2/2

Giới Cụ nt Vĩnh Hưng-2 305 7/2

Quyết Ðạo Tục nt Vĩnh Hưng-2 305 11/2

Mãnh Thí nt Vĩnh Hưng-2 305 20/2

Thành Dụ nt Vĩnh Hưng-2 305 1/3

Thí Dụ Tam Bách Thủ nt Quang Hy-1 306 7/2

Vô Cực Bảo Hoài Ðế Vĩnh Gia-1 307 5/3

A Sai Mạt nt Vĩnh Gia-1 307 1/12

Phổ Diệu nt Vĩnh Gia-2 308 tháng năm

(tại chùa Thiên Thủy)

Hoạt động phiên dịch vĩ đại của ngài Trúc Pháp Hộ, khiến cho quyển 'Xuất Tam Tạng Ký Tập' ghi:" Kinh pháp sở dĩ được lưu truyền rộng rãi khắp Trung Thổ vào buổi sơ thời, đa số đều nhờ công sức của ngài Trúc Pháp Hộ."

Từ lúc bắt đầu phiên dịch cho đến lúc cuối, có rất nhiều người trợ giúp Ngài trong sự nghiệp phiên dịch kinh điển, như sau:

Kinh Năm Người Trợ giúp

Tu Chân Thiên Tử 266 An Văn Huệ, Bạch Nguyên Tín, Nhiếp Thừa Viễn,

Pháp Thừa, Pháp Bảo.

Tu Hành Ðạo Ðịa 284 Pháp Thừa, Pháp Bảo, Quý Ưng, Vinh Thừa, Tác

Ðiểu Tử, Thiện Trì Thời, Thông Võ, Chi Tấn, Chi Tấn Bảo, Vinh Huề Nghị, Hầu Vô Anh, và ba mươi người khác.

A Duy Việt Chí

Giá 284 Pháp Thừa.

Trì Tâm Phạm

Thiên 286 Nhiếp Thừa Viễn.

Chánh Pháp Hoa 286 Nhiếp Thừa Viễn, Trương Sĩ Minh, Trương Trung Chí, Trúc Ðức Thành, Trúc Văn Thịnh, Nghiêm Oai Bá, Tích Văn Thừa, Triệu Thúc Sơ, Trương Văn Long, Trần Trường Huyền, Bạch Nguyên Tín, Khang Na Luật, Tôn Bá Hổ.

Quang Tán Bát

Nhã 286 Nhiếp Thừa Viễn, Bạch Nguyên Tín, Pháp Ðộ.

Văn Thù Sư Lợi

Tịnh Luật 289 Nhiếp Ðạo Chân, Lưu Nguyên Mưu, Phó Công

Tín, Hầu Nham Trường.

Ma Nghịch 289 Nhiếp Ðạo Chân, Triết Hiển Nguyên, Nhiếp Thừa

Viễn.

Dũng Phục Ðịnh 291 Nhiếp Thừa Viễn.

Ðại Ai 291 Nhiếp Thừa Viễn, Nhiếp Ðạo Chân.

Chư Phật Yếu Tập 292 Nhiếp Thừa Viễn, Trúc Pháp Thủ.

Thánh Pháp Ấn 294 Trúc Pháp Thủ.

Tiệm Bị Nhất Thiết

Trí Ðức 297 Nhiếp Thừa Viễn, Bạch Nguyên Tín, Pháp Ðộ.

Hiền Kiếp 300 Triệu Văn Long.

Phổ Diệu 308 Khang Thù, Bạch Pháp Cự.

Trong số người đó, có Trúc Pháp Thừa là đệ tử thân tín nhất của ngài Trúc Pháp Hộ. Trúc Pháp Thừa theo ngài Trúc Pháp Hộ, thọ giới sa di từ thuở thiếu niên. Kể từ lúc ngài Trúc Pháp Hộ đến Trường An lần đầu, Trúc Pháp Thừa luôn đi theo hầu cận, trợ giúp phiên dịch kinh điển và hoằng pháp. Tại Ðôn Hoàng, Trúc Pháp Thừa kiến lập chùa chiền, tận lực tuyên dương Phật pháp, khiến chánh giáo được lưu bố khắp Tây Vực. Lúc ngài Trúc Pháp Hộ trở lại Ðôn Hoàng, Trúc Pháp Thừa đã từng trợ giúp dịch kinh Tu Hành Ðạo Ðịa và A Duy Việt Chí.

Ngài Trúc Pháp Hộ vốn là một đại dịch giả, phiên dịch kinh điển vào thời cổ. Suốt đời, Ngài chuyên chú vào sự nghiệp phiên dịch kinh điển. Song song, có hai giai thoại về Ngài.

Giai thoại thứ nhất: Suốt đời Ngài chăm chú không mỏi mệt, dốc chí tận tâm hành sự nghiệp phiên dịch kinh điển. Cuối đời Tấn Võ Ðế (263-274), Ngài ẩn cư trong thâm sơn cùng cốc. Trên núi có một dòng nước trong xanh, là nơi các người đốn củi thường súc miệng tắm rửa, nên khiến dòng nước bị ô uế. Thời gian sau, dòng nước bị khô cạn. Ngài bồi hồi đứng bên dòng nước khô kiệt mà tự bảo:

- Nước chảy đến đây là cạn. Chẳng còn có cách gì để tự sống. Chắc phải đi qua nơi khác!

Ngài vừa dứt lời thì nguồn nước xanh bỗng vụt chảy ra trở lại.

Sau này, tại Trường An, Ngài xây cất chùa viện tại cửa phía đông của thành, và tinh cần hành đạo. Ðương thời, người ngưỡng mộ đạo đức của Ngài cả hơn ngàn người. Trong quyển 'Cao Tăng Truyện' và 'Khải Nguyên Lục', ngài Chi Ðộn có tán thán ngài Trúc Pháp Hộ như sau:" Ngài Trúc Pháp Hộ tâm tánh trầm tĩnh lặng lẽ, nhu hòa, đạo đức cao thâm."

Ngài là một bậc vĩ nhân dịch giả, thâm giải giáo lý u huyền. Giai thoại về dòng nước khô vụt chảy trở lại, biểu trưng cho oai lực thần dị kiệt xuất của Ngài.

Giai thoại thứ hai: Trúc Pháp Thừa đã theo hầu Ngài và làm sa di từ lúc tám tuổi. Lần nọ, một số người dòng quý tộc muốn thử đạo lực của Ngài, nên đến nơi trụ xứ mà mượn hai trăm ngàn đồng. Nghe họ hỏi han vay mượn, Ngài chỉ đứng lặng thinh mà không đối đáp. Lúc đó, chú sa di mười ba tuổi Trúc Pháp Thừa bèn bảo với các người khách:

- Tâm của Hòa Thượng đã chấp thuận lời thỉnh cầu của quý vị rồi!

Nghe lời này, khách bèn từ tạ ra về. Trúc Pháp Thừa liền thưa với Ngài:

- Xem sắc mặt của họ, chẳng phải đến đây để mượn tiền, mà chỉ muốn thử pháp lực của Hòa Thượng thôi!

Ngài bảo:

- Ta cũng nghĩ như thế!

Ngày thứ hai, những người khách kia trở lại, và dẫn theo hơn một trăm người, đến cầu thỉnh Ngài truyền năm giới cấm, cùng nhắc lại bổn ý vay tiền. Nguyên nhân khiến họ đến mượn tiền vì có người bảo rằng Ngài có cả hai trăm ngàn đồng vàng. Song, tiền này không phải do Ngài vay mượn, mà chỉ do tín đồ cúng dường hoặc ủng hộ trong công việc phiên dịch kinh điển. Ðiều này khác hẳn với sự nghiệp phiên dịch kinh điển của ngài Cưu Ma La Thập và Huyền Trang. Hai ngài vốn được quốc vương quyền thế ủng hộ bảo trợ. Nghe những người khách muốn mượn tiền, Ngài liền hứa khả mà không chút sẻn tiếc. Ðiều này hiển lộ đạo đức sâu dầy, không tham đắm tiền tài vật chất của Ngài.

Tấn Tôn Xước trong quyển luận Ðạo Hiền rất tán thán đạo hạnh của Ngài. Sau này, Ngài tịch vào lúc bảy mươi tám tuổi.

Trong thời Tây Hán, các nhà dịch giả dịch kinh, được liệt kê như sau: Sa môn Cương Lương Lâu Chí dịch một bộ, một quyển kinh. Sa môn An Pháp Khâm dịch năm bộ, mười sáu quyển. Sa môn Vô La Xoa dịch một bộ, ba mươi quyển. Sa môn Bạch Pháp Tổ dịch mười sáu bộ, mười tám quyển. Sa môn Thích Pháp Lập dịch bốn bộ, mười hai quyển. Sa môn Thích Pháp Cự dịch bốn mươi bộ, năm mươi quyển. Sa môn Chi Pháp Ðộ dịch bốn bộ, năm quyển. Sa môn Nhược La Nghiêm dịch một bộ, một quyển. Ưu bà tắc Trúc Thúc Lan dịch hai bộ, năm quyển. Thanh tín sĩ Nhiếp Thừa Viễn dịch hai bộ, ba quyển. Thanh tín sĩ Nhiếp Ðạo Chân dịch hai mươi bốn bộ, ba mươi sáu quyển.

Các nhà dịch giả, không nhất thiết chỉ có sa môn, mà các vị cư sĩ cũng tham gia góp sức.

 

trang 2

Thần Tăng Thiên Trúc

12 34

 

15. Ngài Phật Ðồ Trừng, hưng long Phật pháp

Ngài vốn là người Tây Vực, thuộc nước Quy Từ. Tên tục của Ngài là Bạch, thiếu niên xuất gia, tánh hiền hòa thuần chơn mà hiếu học; tụng đọc kinh thư đến trăm vạn lời; đối với văn nghĩa đều thâm hiểu lương giải, lẹ làng. Lúc chưa qua Trung Thổ, tuy chưa từng đọc qua các Nho sử cùng những kinh thư điển tích, mà khi biện luận với các học giả, đều hợp với ý chỉ. Ðối với sự học vấn Ngài từng bảo:

- Ta đã từng hai lần qua nước Kế Tân để thọ giáo với các danh sư, nên hiện tại mới có được năng lực như vầy.

Người Tây Vực đồng xưng tán rằng Ngài đã đắc đạo.

Ðời Tấn Hoài Ðế, niên hiệu Vĩnh Gia thứ tư (310), Ngài đến Lạc Dương. Ngài có chí nguyện hoằng dương Phật pháp, lại có thần thông, cùng năng sai khiến quỷ thần; xoa mỡ trong lòng bàn tay liền thấy những chuyện cách ngoài ngàn dặm; dự đoán được những việc trong tương lai; nghe tiếng cái linh kêu liền biết việc gì sẽ xảy ra; không gì mà chẳng linh ứng. Bổn ý muốn kiến lập chùa chiền, mà gặp lúc Lưu Diệu đang hưng binh tại Trung Nguyên, khiến kinh sư náo loạn, nên Ngài tạm đình chỉ ý muốn kia, mà ẩn thân nơi miền quê hoang dã, để quán xem thời cuộc chuyển biến, hầu mong tìm cơ hội hưng long Phật pháp.

(Bàn về lịch sử, sau đời Hán và đời Ngụy các dị dân ở phương bắc đã hàng phục triều đình nước Tàu. Nhưng đến đời Ðông Hán, họ lập ra nước Hung Nô, do Lưu Uyên làm hoàng đế. Lưu Uyên mất (310), con là Lưu Thông lên ngôi, rồi dẫn quân công phá thành Lạc Dương vào đời Tấn Hoài Ðế (311). Khi đó, em của Lưu Thông là Lưu Diệu cùng với Vương Di công phá được thành Lạc Dương, bắt giết Tấn Hoài Ðế, rồi lại đem quân công phá thành Trường An, giết Tấn Mân Ðế (316), khiến cho nhà Tấn phải diệt vong. Lưu Thông mất, trong nước có loạn, nên chia làm Tiền Triệu và Hậu Triệu. Sau này, Thạch Lặc ở nước Hậu Triệu giết Lưu Diệu cùng Vương Nhi của Tiền Triệu, và hàng phục được các Hồ tộc như Khương Nhung, rồi tự xưng là Thiên Vương.

Lang Nha Vương Duệ là con cháu của Tư Mã Ý, sang dựng nghiệp ở phía nam tại Kiến Nghiệp (Nam Kinh), lập ra nhà Ðông Tấn, tự xưng là Tấn Nguyên Ðế.)

Ðại quân của Thạch Lặc ở Tân Sát, tỉnh Hà Nam, thường giết vô số dân lành để thị oai. Sa môn của Phật giáo cũng bị bức hại không ít. Chứng kiến cảnh trạng này, ngài Phật Ðồ Trừng khởi lòng từ bi trắc uẩn, thương xót cho quần sanh thống khổ. Ngài định dùng Phật pháp để cảm hóa Thạch Lặc, nên trước tiên đến nhà của Quách Hắc Lược (đại tướng của Thạch Lặc), thuyết phục và khiến hắn phải quy y Tam Bảo cùng thọ năm giới. Từ đó, mỗi lần quân Thạch Lặc xuất trận, Quách Hắc Lược đều dự biết việc thắng bại. Việc này khiến cho Thạch Lặc nghi ngờ, hỏi:

- Ta chẳng cảm thấy rằng ngươi có tài năng mưu lược xuất chúng, mà mỗi lần sắp xuất binh, lại biết việc hung kiết, vậy là nghĩa lý gì?

Quách Hắc Lược thưa:

- Thiên binh của Tướng Quân nay có thần linh hộ trợ. Sa môn nọ pháp thuật cơ trí phi thường. Ngài thường bảo rằng Tướng Quân sẽ thống trị Trung Nguyên, và chính Ngài sẽ là quốc sư. Những việc kiết hung quân cơ thắng bại mà thần biết trước, đều nhờ sự mách bảo của vị sa môn đó.

Nghe như thế, Thạch Lặc mừng rỡ, bảo:

- Trời ban cơ duyên lành!

Nói xong, bèn ra lịnh thỉnh mời ngài Phật Ðồ Trừng đến, hỏi han những việc linh ứng của Phật pháp, cùng yêu cầu được xem pháp thuật hiển bày. Biết rõ Thạch Lặc chẳng hiểu gì về nghĩa lý thâm diệu của Phật pháp, nên Ngài chỉ dùng pháp thuật để hiển minh Phật đạo thâm cao. Ngài bảo:

- Ðạo tuy cao xa thâm sâu khó hiểu, nhưng có thể lấy những việc gần nhất làm minh chứng.

Nói xong, Ngài yêu cầu mang ra một bồn nước, rồi dâng hương niệm chú. Hồi sau, từ trong bồn xuất hiện một đóa hoa sen xanh, tỏa sáng màu sắc dị thường. Xem thấy điều này, Thạch Lặc bèn tín phục. Lợi dụng cơ hội đó, Ngài răn nhắc Thạch Lặc:

- Phận làm vua phải lấy đức mà ban bố cho thiên hạ, thì sẽ có bốn linh quái như lân, phượng, quy, long xuất hiện, để biểu thị điềm lành. Nếu chánh trị có lắm điều tệ hại, và chánh đạo suy vi, thì sao chổi sẽ xuất hiện, việc xấu sẽ phát khởi, tức biểu thị sự chẳng lành. Những điềm linh dị đó, đều tương ứng với nền chánh trị hiền lương hay bạo ngược. Xưa nay, điều này thường xảy ra, và các bậc cao nhân hiểu rõ thiên lý đều răn nhắc.

Nghe những lời răn nhắc này, Thạch Lặc liền thọ nhận tín phục. Từ đó, hễ mười người sắp bị giết thì có chín người được tha, và thấm nhuần ân trạch của Phật pháp. Do Thạch Lặc y cứ theo lời khuyên nhắc của Ngài để thi hành chánh trị, nên tại Trung Nguyên, Hồ tộc cùng Hán tộc đại đa số đều tín phụng Phật pháp. Từ đó, Ngài tận lực làm cố vấn cho Thạch Lặc về quân sự chính trị, cùng dự tri tiên đoán những việc hung kiết. Thế nên, đối với thần lực dị kỳ của Ngài, Thạch Lặc rất cung kính kinh sợ, nên thường xưng Ngài là Ðại Hòa Thượng.

Lần nọ, Thạch Lặc từ Cát Pha trở về Hà Bắc, đi qua Phương Ðầu. Tối đến, có người định đánh úp doanh trại. Dự biết việc này, Ngài gọi Quách Hắc Lược, bảo:

- Sẽ có kẻ đến trộm lấy long bào. XIn hãy báo cho Thạch Lặc để sớm phòng bị.

Ðến tối, quả nhiên có sự việc xảy ra như Ngài tiên đoán. Song, nhờ phòng bị cẩn mật, nên Thạch Lặc thoát chết. Vào một đêm nọ, vì muốn thử thần thông của Ngài, Thạch Lặc bèn mang y giáp, cầm đao mà ngồi, rồi phái người qua thưa với Ngài:

- Trời tối, Thạch tướng quân không biết phải làm gì!

Viên quan do Thạch Lặc phái đi, vừa đến nơi, chưa kịp nói năng gì Ngài đã bảo:

- Mọi việc đều an lành, lại không có tặc khấu đến, mà tại sao Thạch Lặc lại võ trang chuẩn bị nghinh chiến?

Từ đó, Thạch Lặc lại càng thêm cung kính Ngài.

Lần khác, Thạch Lặc đột nhiên tức giận tăng chúng, nên tâm muốn giết hại, lại định bắt tội Ngài. Dự tri biết ý đồ này, nên tại nhà Quách Hắc Lược, Ngài bảo đồ chúng:

- Nếu Thạch Lặc phái người đến tìm Ta, thì hãy đáp rằng không biết!

Chẳng bao lâu, người do Thạch Lặc phái đến, tìm không thấy Ngài tại nhà Quách Hắc Lược, nên trở về bẩm tấu. Thạch Lặc hoảng sợ, thốt:

- Vì Ta có ác niệm với Thánh Nhân, nên Ngài đã bỏ đi!

Vì vậy, Thạch Lặc mãi trằn trọc suốt thâu đêm, chỉ ước muốn gặp lại Ngài. Biết Thạch Lặc đã hồi tâm, sáng hôm sau Ngài đến gặp. Vừa thấy Ngài, Thạch Lặc vui mừng hỏi:

- Ðêm qua Ngài đi đâu vậy?

Ngài bảo:

- Vì hôm qua Ðại Vương nổi giận lôi đình, nên lão tăng tạm thời lánh mặt. Bây giờ, Ðại Vương đã hồi tâm, nên lão tăng trở lại đây tương kiến.

Nghe lời này, Thạch Lặc không những thán phục mà còn vui mừng bất tận.

Lần nọ, nguồn nước dẫn từ phía tây bắc của hào thành Tương Quốc dài khoảng năm dặm đột nhiên bị khô cạn. Thạch Lặc hỏi Ngài rằng có thể khiến cho mạch nước chảy lại được không, Ngài đáp:

- Chỉ việc triệu rồng đến thì giải quyết xong?

Vì tên tự của Thạch Lặc là 'Long' (tức rồng), nên tưởng là Ngài nói đùa, ông bảo:

- Tại vì rồng không thể khai mạch nước, nên mới cầu thỉnh Ngài!

Ngài nói:

- Ta nói lời chân thật, chẳng phải đùa giởn. Ðầu nguồn mạch nước, có một con rồng ẩn cư. Chỉ việc triệu thỉnh nó ra, thì mạch nước sẽ chảy tràn đầy.

Do đó, Ngài dẫn đồ đệ đến đầu mạch nguồn suối. Nơi đó, nước khô cạn đã lâu, lại có vết của các bánh xe qua lại in rõ ràng. Chư đệ tử e sợ không thể khai thông mạch nước. Song, Ngài duyệt ý định thần, ngồi ngay ngắn trên một gốc cây, dâng hương khấn nguyện, tụng niệm thần chú. Cứ như thế trải qua ba ngày, tại nguồn suối khô đột nhiên nước vụt chảy ào ào. Một con rồng nhỏ, dài khoảng năm thước, theo mạch nước mà bò ra. Vừa thấy rồng thì đồ chúng của Ngài lại tranh nhau xem. Ngài bảo:

- Rồng có khí độc, chớ đến gần nó!

Chẳng bao lâu thành hào Tuơng Quốc có nước chảy tràn đầy. Ngồi một mình nơi đó, Ngài lại bảo:

- Hai ngày sau, sẽ có một kẻ nô bộc làm kinh thiên động địa đến đây.

Nguyên vì Tiết Hợp, người Tương Quốc, có hai đứa con rất kiêu căng ngạo mạn. Lần nọ, chúng lừa gạt trêu chọc một người nô bộc thuộc bộ tộc Tiên Ti, nên gã sanh tâm phẫn uất, khởi ác niệm, bèn bất cẩn giết đứa con nhỏ, rồi lại bắt nhốt đứa con lớn trong phòng. Môn nhân định chạy vào cứu thì gã vung đao, và hâm dọa rằng nếu có ai đến gần thì sẽ giết đứa con đó. Gã bảo:

- Hãy đưa Ta trở về bổn quốc. Ngược lại, Ta sẽ chết với thằng nhỏ này tại nơi đây.

Dân chúng trong và ngoài thành đều kinh hoàng sửng sốt, nên chạy đến xem coi, bao quanh nhà của Tiết Hạo. Thạch Lặc cũng tự thân đến đó, bảo:

- Hãy đưa gã nô bộc này về bổn quốc của hắn, thì mới mong bảo tồn sanh mạng của con ông. Ðó là cách lựa chọn tốt nhất. Nếu quốc pháp đã khai, thì sẽ mang họa đến. Ta khuyên ông hãy gạt bỏ tình riêng mà suy xét tường tận. Luật pháp quốc gia không vì việc này mà sửa đổi!

Do đó, Tiết Hợp sai người bắt gã nô bộc. Gã nô bộc tức giận, nhanh chóng giết thằng con của ông ta rồi tự để bị trói. Vì việc này, bộ tộc Tiên Ti là Ðoạn Ba cầm quân đánh Thạch Lặc. Thanh thế quân binh của Ðoạn Ba rất mạnh mẽ, khiến cho Thạch Lặc rất lo âu sợ sệt, nên phải cầu Ngài tìm kế đối địch. Ngài bảo:

- Hôm qua cái linh trong chùa chợt kêu lên tiếng rằng sáng sớm ngày mai, Ðoạn Ba sẽ bị bắt.

Thạch Lặc lên thành xem xét quân tình, thấy quân của Ðoạn Ba hàng hàng lớp lớp vây kín ngoài thành, nên kinh hoàng thất sắc bảo:

- Quân địch đông đúc khiến đại địa chấn động, như vầy thì làm sao bắt được Ðoạn Ba? Ngài Phật Ðồ Trừng chắc chỉ an ủi Ta thôi!

Trong tâm bất an, nên Thạch Lặc lại phái người đến hỏi Ngài về binh tình. Ngài bảo:

- Chớ có hoài nghi, Ðoạn Ba đã bị bắt rồi!

Nhân vì có một đội quân của Thạch Lặc lẻn ra ngoài thành phục kích. Gặp Lúc Ðoạn Ba đang đi tới, nên họ bắt được ông ta.

Bắt được tướng địch, Ngài lại khuyên Thạch Lặc hãy thả Ðoạn Ba trở về bổn quốc. Thạch Lặc nghe theo lời dạy của Ngài, nên sau này được lợi ích.

Ðương thời, Lưu Thông vừa mất, người em là Lưu Diệu lên kế vị, đổi quốc hiệu là Tiền Triệu, niên hiệu Kiến Nguyên Quang Sơ. Niên hiệu Quang Sơ thứ tám, Lưu Diệu phái em mình là trung sơn vương Lưu Nhạc thống lãnh đại binh sang đánh Thạch Lặc. Thạch Lặc bèn phái Thạch Hổ mang quân ra chống cự. Sau khi hai bên đánh nhau tại phía tây thành Lạc Dương, Lưu Nhạc vì thua bại phải thối lui về thung lũng Thạch Lương, rồi cho quân kiên thủ phòng bị. Công phá không nổi, Thạch Hổ bèn kéo quân ra vùng phụ cận, cắm lều kiên quyết chờ Lưu Nhạc. Hai bên cứ đánh nhau mãi mà không phân thắng bại.

Ngày nọ, cùng với các đệ tử vừa bước vào cửa chùa Tự Quan, Ngài bèn thốt lời:

- Thương thay cho Lưu Nhạc!

Ðồ chúng không hiểu gì, nên hỏi han. Ngài bảo:

- Giờ hợi ngày hôm qua, Lưu Nhạc đã bị bắt rồi.

Chốc lát sau, tin chiến trận truyền về, quả nhiên như lời của Ngài tiên đoán.

Niên hiệu Quang Sơ thứ mười một, Lưu Diệu tự thân dẫn đại binh công phá thành Lạc Dương. Thạch Lặc định tự thân đem binh ra chống cự, nhưng triều thần đều khuyên rằng không cần phải mạo hiểm. Thạch Lặc bèn đến hỏi Ngài phải nên làm gì. Ngài bảo:

- 'Tú chi thế lệ võng, bộc cốc cù ngốc đương' là ngôn ngữ của Yết tộc, cũng có nghĩa là xuất binh thì bắt được Lưu Diệu.

Bấy giờ, quan quân nghe thế, tin lời tiên đoán của Ngài, nên lại thỉnh Thạch Lặc thân chinh thống lãnh đại quân. Thạch Lặc bèn giữ Thạch Hoằng lại để trấn thủ thành Tương Quốc, rồi tự thống suất đại binh đến Lạc Dương. Ðang lúc hai bên giao chiến, quân của Lưu Diệu bỗng nhiên bị tán loạn. Ngựa của Lưu Diệu cũng té xuống nước. Thừa dịp, Thạch Kham cho quân vây bắt được Lưu Diệu, rồi dẫn về gặp Thạch Lặc. Ðương thời, trong thành Ngài lấy dầu xoa bàn tay, rồi trong đó hiện ra trong quân binh náo loạn, một người nọ bị trói tay. Ngài bèn bảo Thạch Hoằng rằng người đó chính là Lưu Diệu.

Bình định Lưu Diệu xong, Thạch Lặc tự xưng là Triệu Thiên Vương, đổi niên hiệu là Kiến Bình, tức làm vua nước Hậu Triệu. Bấy giờ nhằm niên hiệu Hàm Hòa thứ năm, đời Ðông Tấn Thành Ðế (330).

Lần nọ, Thạch Thông có ý đồ phản loạn, mà Ngài biết rõ việc này, nên bảo Thạch Lặc:

- Năm nay trong cây hành có trùng, nên không thể ăn được. Xin Ðại Vương hạ lệnh cấm dân chúng ăn hành.

Do đó, Thạch Lặc viết chiếu chỉ, cấm dân chúng không được ăn hành. Nhân vì 'thực thông' (tức là cây hành), vốn đồng âm với tên của Thạch Thông, nên nghe sắc lịnh đó, Thạch Thông biết cơ mưu đã bại lộ. Vào tháng tám, vì sợ bị bắt tội, Thạch Thông lẩn trốn đi nơi khác. Thạch Lặc sau này biết rõ sự tình, nên càng thêm cung kính Ngài. Có hữu sự chi, Thạch Lặc đều bàn thảo với Ngài rồi mới thi hành.

Thạch Bân vốn là con của Thạch Hổ, được Thạch Lặc thương mến vô cùng. Lần nọ, Thạch Bân bị nóng sốt rồi mất mạng. Thạch Lặc đau xót bảo:

- Ta đã từng nghe rằng xưa kia thái tử của nước Quách Quốc chết, Thiên Thước cứu sống trở lại. Ðại Hòa Thượng là thần nhân trong nước. Hãy thưa với Ngài việc này. Nhất định Ngài sẽ chuyển họa thành phước.

Do đó, Thạch Lặc cho người thỉnh Ngài đến. Ngài dùng cành cây dương chi phất trên đầu Thạch Bân, và tụng niệm thần chú. Chốc lát sau, Thạch Bân sống trở lại, rồi từ từ khỏe mạnh như thường. Từ đó, Thạch Bân thường ở suốt trong chùa. Mỗi năm đến mồng tám tháng tư, tức ngày Phật đản, Thạch Lặc tự thân đến chùa dự lễ tắm Phật để cầu phước.

Niên hiệu Kiến Bình thứ tư (333), vào tháng tư, trời trong mây tạnh, chẳng có ngọn gió nào, mà cái linh trên tháp, chợt khua vang tiếng não nề. Ngài bảo đại chúng:

- Linh bảo rằng trong nước có đại tang. E rằng năm nay sẽ phát sanh.

Năm đó, vào tháng bảy, Thạch Lặc mất, Thạch Hoằng kế vị. Chẳng bao lâu, Thạch Hổ lại truất phế Thạch Hoằng mà tự lên ngôi, rồi dời đô từ Tương Quốc về Nghiệp Ðô (tức huyện Lâm Chương, tỉnh Hà Nam), đổi niên hiệu là Kiến Võ. Thạch Hổ lại càng tận tâm tận ý tín phụng Ngài hơn Thạch Lặc, nên ban sắc lịnh:

- Ðại Hòa Thượng là đại quốc bảo của triều đình. Ngài không hề lãnh thọ phẩm lộc vinh hoa. Từ nay, phải kết lụa kim tuyến làm y, trang hoàng hoa kiệu làm xe. Ngày hội triều, lúc Ðại Hòa Thượng thăng cung điện, quan viên hầu phải đều đỡ kiệu, và thái tử cùng chư công hầu cũng phải đưa Ngài lên cung điện. Chủ trào đều xưng 'Ðại Hòa Thượng' đến. Các quan đang ngồi đều phải đứng dậy nghinh tiếp để biểu thị oai đức cao quý tôn vinh của Ngài.

Thạch Hổ lại sai Ty Không Quý Nông, sớm tối đến chùa vấn an Ngài. Thái tử cùng chư công hầu cách năm ngày là đến bái kiến Ngài, để biểu thị lòng tôn kính cao tột.

Ngày nọ, lúc cư trú tại chùa trong thành Nghiệp Ðô, Ngài phái đệ tử là Pháp Thường sang Tương Quốc để gọi một đệ tử khác là Pháp Tả trở về. Trên đường Pháp Thường gặp Pháp Tả tại thành Lương Cơ, nên cùng trú qua đêm một nơi. Ðến tối, họ cùng nhau đàm luận về những việc dị thường của Ngài. Sáng hôm sau, cả hai chia tay. Pháp Tả về tới Nghiệp Ðô. Ngài cười bảo:

- Ðêm qua, ngươi cùng Pháp Thường bàn luận về việc của Ta phải không? Cổ nhân nói rằng chớ vì không gặp nhau mà chẳng sanh tâm cung kính. Chớ vì sống đơn độc một mình mà sanh tâm giải đãi nơi giới luật.

Nghe qua lời này, Pháp Tả kinh sợ kính phục mà sám hối. Do đó, dân chúng thường thường răn nhắc với nhau:

- Chớ khởi tâm ác! Không sợ Ðại Hòa Thượng biết sao!

Thái tử Thạch Thúy có hai đứa con tại Tương Quốc. Ngài từng bảo Thạch Thúy:

- Con của Thái Tử sắp bị bịnh nặng. Hãy mau qua đó mà lo lắng chăm sóc.

Thạch Thúy phái người đến thăm, thì quả nhiên như lời Ngài bảo; một đứa con của ông ta đang bị bịnh nặng, nằm liệt giường. Vì vậy, Thạch Thúy cho mời thái y Ðoạn Thắng cùng các đạo sĩ ngoại quốc đến chẩn bịnh. Họ đều bảo rằng có thể cứu chữa căn bịnh cho con của Thạch Thúy. Ngài bảo với đệ tử là Pháp Nha:

- Ngay cả thánh nhân xuất thế, cũng không cứu được bịnh con của Thạch Thúy, hà huống là những người đó!

Ba ngày sau, quả nhiên con của Thạch Thúy qua đời. Thạch Thúy đam mê tửu sắc, lại định tạo phản, nhưng vẫn còn e dè thần thông của Ngài, tức sợ bị phát giác, nên bảo tướng hầu cận Hắc Vũ:

- Hòa thượng thần thông quảng đại. E sợ rằng Hòa Thượng phát giác việc của Ta. Vậy, ngày mai khi Hòa Thượng đến, ngươi hãy trừ khử cho Ta.

Rằm mỗi tháng, Ngài thường đến thăm Thạch Hổ. Lần đó, trước khi đi, Ngài bảo Tăng Huệ:

- Ðêm qua thần mách bảo Ta rằng ngày mai nếu có thượng trào, thì quyết chớ đi thăm viếng người nào! Trước khi Ta muốn đi, ngươi hãy nhắc nhở, chớ đi qua nơi khác!

Mỗi lần Ngài vào triều xong, nhất định phải qua gặp Thạch Thúy. Thấy Ngài đã vào triều, Thạch Thúy bèn cầu thỉnh Ngài qua đông cung. Nhớ lời dặn dò vừa rồi, Tăng Huệ lập tức kéo y của Ngài để làm hiệu. Ngài bảo:

- Không còn biện pháp nào. Không thể chẳng đi!

Qua đến đông cung, vừa ngồi xuống thì Ngài bèn cáo từ. Thạch Thúy kiên quyết lưu giữ lại, nhưng Ngài chẳng khứng chịu, nên âm mưu ám sát không thành. Trở về chùa, Ngài than vãn:

- Dáng dấp phản loạn của Thái Tử đã hình thành. Ta muốn nói mà thật khó nói, và muốn nhẫn mà thật khó nhẫn.

Bấy giờ, Ngài chỉ dùng ẩn ngữ để răn nhắc Thạch Hổ. Song, Thạch Hổ chẳng hiểu chút nào. Ðến khi âm mưu tạo phản của Thái Tử bộc phát, thì Thạch Hổ mới hiểu dụng ý về những ẩn ngữ răn nhắc của Ngài.

Sau này, Quách Hắc Lược dẫn quân đi chinh phạt Khương tộc ở Bắc Sơn, Trường An. Giữa đường bị người Khương phục kích. Ðương thời, Ngài đang ngồi tại chánh điện, có đệ tử là Pháp Thường đứng hầu. Ngài chợt biến sắc mặt bảo:

- Quách Hắc Lược hiện nay đang lâm nạn.

Nói xong, Ngài bảo chúng tăng tụng kinh chú nguyện. Chẳng bao lâu Ngài tự bảo:

- Chỉ việc qua hướng đông nam thì mới có thể thoát nạn. Ði nơi khác đều sẽ bị nguy khốn.

Nói xong, rồi lại chú nguyện tiếp tục. Chốc lát sau, Ngài bảo:

- Ðã thoát nạn rồi!

Vài tháng sau, Quách Hắc Lược ban sư hồi kinh, và trần thuật lại việc bị lâm nạn nơi quân của Khương tộc. Ông ta hướng về phía đông nam chạy lánh nạn. Song, con ngựa đã kiệt sức, nên tưởng chắc sẽ bị bắt. May sao, dưới trướng có một người nọ, đem một con ngựa đến cho, bảo:

- Hãy đổi ngựa của tướng quân cho Ta. Thoát được vòng vây hay không, chỉ do thiên mạng.

Nhờ cỡi con ngựa đó mà Quách Hắc Lược chạy thoát vòng vây. Tính ra ngày tháng, thì hôm đó chính là lúc Ngài đang chú nguyện.

Biết tánh khí thô bạo của Thạch Hổ, Ngài thường dùng lý luận Phật giáo và năng lực thần dị dựa trên tinh thần từ bi, để răn nhắc ông ta hành sự.

Hai đại thần của Thạch Hổ là Trương Ly và Trương Lang, vốn giàu sang quyền quý, tín phụng Phật pháp, kiến lập chùa chiền. Ngài bảo họ:

- Làm việc Phật sự phải có tâm từ bi, thanh tịnh, không tham lam. Ðàn việt tuy tín phụng đại pháp, mà tâm tham chưa dứt, mong muốn vô độ, chưa từng biết tự tiết chế, tích tụ tài sản không cùng tận, nên sẽ thọ tội trong hiện đời, thì sao hy vọng có được phước báo?

Tinh thần căn bổn quan trọng nhất khi làm Phật sự của người Phật tử là tâm phải từ bi, thanh tịnh, không tham cầu. Ngài răn nhắc Trương Ly và Trương Lang những lời này vì tuy họ có tín phụng cúng dường Tam Bảo, xây dựng chùa chiền, nhưng đều dựa trên tâm tham cầu vô độ, lo tích tụ tài sản không hạn lượng, lại thường giết hại chim chóc cầm thú. Vì vậy, tạo tội báo ngay trong hiện đời, thì dẫu cần cầu, làm sao phước lành đến được!

Sau này, Trương Ly và Trương Lang vì tự ý phóng túng, phạm đến quốc pháp, nên bị gia hình.

Con của Thạch Hổ là đại tư mã yến công Thạch Bân, nhậm chức tại U Châu Mục, thường chiêu tập những kẻ ác, làm bao việc phi nghĩa. Ngài bảo Thạch Hổ:

- Hôm qua, thiên thần bảo Ta rằng hãy mau dẫn con ngựa trở về, nếu không đến mùa thu sẽ sanh ra việc hư thối.

Thạch Hổ không hiểu ý của Ngài, chỉ ra lịnh bắt những con ngựa chạy rong, nhốt vào chuồng. Ðến mùa thu, được người bẩm tấu hành động tàn ác của Thạch Bân, Thạch Hổ giận dữ, bèn triệu hắn về, rồi ra lịnh giết mẹ của Thạch Bân là Tề Thị, và đánh phạt Thạch Bân ba trăm roi. Ðích thân Thạch Hổ giám sát hành phạt. Song, thấy bọn thủ hạ đánh phạt Thạch Bân quá nhẹ, nên Thạch Hổ ra lịnh giết cả năm trăm người. Thấy Thạch Hổ giết người quá lắm, Ngài khuyên:

- Tâm không thể quá phóng túng! Người chết rồi không thể sống lại! Theo lễ nghi quy định, Thiên Tử không thể tự thân giết người, vì tổn thương ân đức. Sao Ðại Vương lại tự tay gia hình?

Nghe lời này, Thạch Hổ mới chịu dừng tay.

Về sau, quân Ðông Tấn phản công, giao chiến ba mặt tại Trường An, Tân An, Lạc Dương. Quan quân gởi thơ cấp báo, tình thế nguy kịch. Thạch Hổ tức giận bảo:

- Ta tín phụng Phật pháp, cúng dường tăng sĩ. Nay bị nạn ngoại xâm, Phật linh ứng gì đâu?

Ngày kế, Thạch Hổ đem việc này cật vấn Ngài. Ngài bảo:

- Ðại Vương tiền thế vốn là một đại thương chủ, đã từng đến nước Kế Tân hành cúng dường đại hội trai tăng. Ðương thời, trong hội có sáu mươi vị A La Hán, mà Ta cũng trong số đó. Bấy giờ, một vị đã đắc đạo bảo rằng vị chủ nhân này sau khi mạng chung, trước tiên sẽ thọ làm thân gà, rồi kế đến sanh làm vua tại Trung Thổ. Hiện tại, Ðại Vương đã làm vua, vậy chẳng phải do phước báu sao? Nơi chiến trường, thắng thua là việc thường tình. Sao vì việc này mà oán giận Tam Bảo, hưng khởi ý niệm độc ác?

Nghe qua lời này, Thạch Hổ lãnh hội, nhận thấy lỗi lầm, nên quỳ xuống tạ tội sám hối. Thạch Hổ lại hỏi Ngài:

- Yếu chỉ căn bổn của Phật pháp là gì?

Ngài đáp:

- Phật giáo vốn không giết người!

- Con vốn làm vua thiên hạ. Nếu không dùng hình phạt thì chẳng có cách nào để hoàn thành trọng trách răn nhắc dân chúng trong nước. Con đã làm ngược lại giới cấm sát sanh mà giết người, rồi lại hành Phật sự. Như thế thì có gặt được phước báo quả lành không?

- Ðại Vương làm việc Phật sự, phải dùng toàn thân tận ý cung kính, và dụng tâm tùy thuận giáo pháp, xiển dương Tam Bảo. Lại nữa, chẳng nên có hành vi bạo ngược, giết hại dân chúng vô tội. Ðối với những kẻ hung ác vô loại, tội ác đầy trời, nếu không thể dùng giáo pháp để khiến chúng hồi tâm hướng thiện, thì không thể chẳng giết, và không thể chẳng gia hình. Phải giết những kẻ nên giết. Phải hành phạt những kẻ nên hành phạt. Nếu Ðại Vương tùy ý mà giết hại lương dân vô tội, thì phước báu do cúng dường Tam Bảo hay xây cất chùa chiền, không thể giải cứu hoạn nạn được. Vì vậy, hy vọng Ðại Vương dùng tâm từ bi mà chăm lo cho dân chúng. Nếu được như thế, thì không những Phật pháp vĩnh viễn được hưng long, mà phước báu của Ðại Vương cũng được lâu bền.

Tâm nguyện của Ngài là muốn dạy Thạch Hổ cùng chư Phật tử phải ít muốn biết đủ, hưng khởi tinh thần từ bi. Tuy không hoàn toàn tuân theo hết những lời dạy của Ngài, nhưng Thạch Hổ cũng làm những việc thiện không ít, nên khiến dân chúng được phước lợi rất nhiều.

Năm nọ, trời đại hạn hán từ tháng giêng đến tháng sáu. Thạch Hổ sai thái tử đến khẩu Tây Phù ở Lâm Chương để cầu mưa, nhưng cầu mãi vẫn chưa được. Vì vậy, Thạch Hổ thỉnh nhờ Ngài cầu mưa. Chẳng bao lâu, trên nền trời xanh, hai con rồng trắng bay lượn chung quanh đàn cầu mưa, rồi trong khoảnh khắc mưa đổ xuống như thác. Nông dân trong vòng ngàn dặm, được trúng mùa vào năm đó. Những kẻ ngông cuồng vốn không tin Phật pháp, nghe đến việc thần kỳ của Ngài, đều phải lễ bái, và từ từ tiếp thọ giáo pháp.

Ngài thường sai đệ tử qua Tây Vực để mua hương. Vị đệ tử đó đi cả mấy ngày sau, Ngài đột nhiên bảo đồ chúng:

- Ta thấy hắn sắp bị bọn cướp nơi kia gia hại.

Nói xong, Ngài dâng hương chú nguyện. Lúc trở về, người đệ tử kia thuật lại:

- Trên đường sang Tây Vực mua hương, con bị bọn cướp vây quanh định giết hại. Ðột nhiên, có mùi hương lạ bay đến, khiến bọn cướp đều kinh hoàng la hoảng:' Cứu binh đến', rồi bỏ chạy, nên sanh mạng của con mới còn.

Khi Thạch Hổ đến Lâm Chương sửa chữa lại một ngôi tháp cũ. Nơi đó, có lộ lên một cái mâm. Ngài bảo:

- Trong thành Lâm Chương có một ngọn tháp của vua A Dục. Dưới mặt đất vẫn còn có một cái mâm và một tượng Phật. Nơi đó, cây cối mọc rất um sùm. Hãy cho người đến đó mà đào lên.

Nói xong, Ngài vẽ địa đồ. Thạch Hổ bèn sai người y theo đó mà đào xới, thì thật tìm thấy được một cái mâm và một tượng Phật.

Lần nọ, biết Thạch Hổ muốn dẫn quân sang chinh phạt nước Yên, Ngài bèn khuyên:

- Vận thế của nước Yên chưa hết. Ðại Vương dẫn quân đi chinh phạt, thì e rằng khó thành công.

Thạch Hổ chẳng chịu nghe lời khuyên của Ngài, mà cứ dẫn quân sang đánh nước Yên, và bị đại bại, phải kéo quân về. Từ đó, Thạch Hổ lại càng tin tưởng những lời răn nhắc của Ngài.

Song song với công nghiệp kiến lập chùa chiền, giảng kinh thuyết pháp, giáo hóa chúng dân cùng họ Thạch, ngài Phật Ðồ Trừng cũng từng độ chúng xuất gia. Người Tàu xuất gia đi sang Tây Vực cầu pháp đầu tiên vào đời Tam Quốc là Châu Sĩ Hành. Ðương thời, người Tàu xuất gia rất ít. Ðại đa số đều là chư tăng người Thiên Trúc, Tây Vực, Khương Cư, Quy Từ, Kế Tân, đến Trung Thổ hoằng dương Phật pháp hay phiên dịch kinh điển. Tín phụng Phật pháp, chỉ hạn cuộc nơi tín đồ Phật tử tại gia mà thôi. Nhờ oai đức cảm hóa của ngài Phật Ðồ Trừng, mà tín chúng Phật tử đua nhau cúng dường tài vật để xây dựng chùa chiền, và lại tranh nhau xuất gia, nên không tránh khỏi sự lạm dụng của một số tăng đồ.

Từ khi Hán Minh Ðế thấy thần minh hiển hiện, bèn bắt đầu cho người sang Tây Vực cầu pháp, nhưng triều đình chưa chính thức cho phép người Tàu tín phụng Phật pháp, như sau:" Duy chỉ có người Tây Vực, lập tự viện nơi Ðô Ấp, tín phụng Phật là thần."

Xây dựng chùa chiền, cúng dường chư sa môn, làm việc Phật sự, chỉ hạn cuộc nơi người Tây Vực, và chỉ thừa nhận người xuất gia Tây Vực, chứ không cho phép người Tàu xuất gia. Ðời Tào Ngụy cũng y chiếu theo chế độ như thế của đời Ðông Hán.

Gốc vốn là người Hồ tộc ở bắc phương, có phong tục tập quán cùng thể chế khác với người Tàu, mà lúc tiến vào Trung Thổ, được lên ngôi cửu trùng, Thạch Hổ bèn ban sắc lịnh:" Phật là thần của nước ngoài, chẳng phải là vị thần mà các vua chúa ở Trung Thổ tín phụng. Ta vốn sanh trưởng tại biên thùy, thế vận may mắn, làm vua nơi Trung Thổ. Bàn về việc tế tự, Ta có chủ quyền ở nơi đây, nên đối với những tế tự phải theo phong tục của bổn quốc (Hậu Triệu). Phật vốn là thần của Ta, nên dân chúng phải tín phụng. Do trên quốc vương thường hành, thì mới có thể trở thành quy chế vĩnh viễn. Nếu không có việc gì tổn hại, thì không cần phải câu nệ theo chế độ của các đời vua lúc trước, mà cấm chỉ người Tàu xuất gia. Người Di Ðịch, người Tàu, người Mán, nếu ai có nguyện ý xả tục mà xuất gia hành Phật sự, thì Ta đều chuẩn hứa cho họ làm người tu đạo.

Sắc lịnh này được ban ra để đối lại với biểu tấu của quan triều là Vương Ðộ. Ông ta đã từng dâng tấu (335) xin Thạch Hổ hãy cấm ngặt người Hậu Triều không được tín phụng lễ bái Phật đà; trừng phạt những ai vi phạm luật này, và bắt các sa môn người Tàu phải hoàn tục vì đức Phật chỉ là vị thần của nước ngoài, không phải là vị thần mà các vua chúa tiền triều tín phụng.

Do sắc lịnh này ban ra, những ai muốn xuất gia tu đạo đều được chuẩn y. Niên hiệu Thái Ninh đời Ðông Tấn (323-326), và niên hiệu Kiến Võ nhà Hậu Triệu của Thạch Hổ (335), triều đình chính thức cho phép người Tàu xuất gia. (Trước đó, sa môn người nước Triệu tuy có tiếng là xuất gia, nhưng vẫn thường ăn mặc giống như thường dân.) Quyển KInh Tịch Chí thứ ba mươi lăm của sách đời Tùy, viết:" Trong những năm đầu Ngụy Hoàng, người Trung Thổ bắt đầu y theo giới pháp của Phật, xuống tóc làm tăng."

Xưa kia, người Tàu xuất gia, chỉ do tự cá nhân chứ chưa được triều đình chính thức cho phép, như Châu Sĩ Hành và Trúc Thâm (em của thừa tướng Vương Ðôn, đời vua Tấn Thái Xương).

Ngày nọ, Ngài cùng đệ tử là Ðạo An lên cung điện. Ðang ngồi, Ngài chợt la lên:

- Biến biến U Châu! Chính có hỏa hoạn!

Nói xong, Ngài bèn bảo lấy rượu ra, rồi rắc rượu xuống đất như dạng cứu lửa. Lát sau, Ngài cuời bảo:

- Cứu lửa đã xong!

Thạch Hổ nhìn thấy việc này chẳng hiểu tự sự, nên phái người đến U Châu thẩm tra, và được bẩm báo:

- Ngày đó, hỏa hoạn xảy ra tại cửa phía tây, về hướng Tây nam của Ðiểu Vân Mật Dõng. Ðương thời, tự nhiên mây kéo đến, rồi mưa rơi tầm tả, khiến lửa bị dập tắt, mà trong nước mưa, có chút mùi rượu.

Tại Ngụy huyện có một gã lang thang, không ai biết danh tánh, chỉ thường mặc vải bố, và xin ăn nơi chợ ở huyện thành, nên mọi người đều gọi là 'Ma Nhu'. Ngôn ngữ của gã rất lạ kỳ, mà hành sự như kẻ điên. Mỗi lần xin được cơm thì không chịu ăn, lại tán nhuyễn rồi để tại ngã tư đường, tự bảo rằng cho ngựa trời ăn. Thái thú Tạ Bạt ở Triệu Hưng, biết rõ hành vi của gã, nên bắt giam, rồi giao lại cho Thạch Hổ. Trước đó, Ngài đã dự tri việc này mà bảo Thạch Hổ:

- Cách nơi đây hai trăm dặm về phía đông, vào ngày nọ sẽ có một người chẳng đồng phàm nhân. Xin chớ hại người đó.

Vài ngày sau, Tạ Bạt cho quân đưa người này đến. Thạch Hổ cùng với người đó đối đáp, mà chẳng có lời gì kỳ đặc, trừ câu:

- Ðiện Hạ cuối cùng là một cột trụ dưới cung điện.

Nghe lời này, Thạch Hổ không hiểu gì cả, nên dẫn đến gặp Ngài. Vừa gặp mặt, Ngài cùng người đó đàm luận suốt cả ngày đêm. Chư đệ tử chẳng hiểu gì về nội dung của những lời luận bàn, chỉ cảm thấy như họ bàn luận về những việc cả mấy trăm năm về trước. Sau này, Thạch Hổ cho quân đưa người đó trở về Ngụy Huyện. Xe vừa ra khỏi thành, người đó bèn bước xuống mà đi bộ, và bảo rằng muốn đến thăm bạn hữu, rồi hẹn với quan quân sẽ gặp tại cầu Hợp Khẩu. Quan quân đánh xe ngựa chưa đến cầu Hợp Khẩu thì đã thấy người đó đứng trên cầu.

Ngài có một người đệ tử là Ðạo Tấn, uyên bác thông suốt ngoại điển nội thư, rất được Thạch Hổ kính trọng.

Niên hiệu Kiến Võ thứ mười bốn (348), con của Thạch Hổ Là Thạch Tuyên và Thạch Thao muốn giết lẫn nhau. Lần nọ, Thạch Tuyên đến chùa, ngồi kế bên Ngài. Lúc đó, cái linh trên tháp Phật chợt vang tiếng. Ngài bảo Thạch Tuyên:

- Ngài có hiểu linh nói gì chăng. Linh bảo rằng Hồ tử lạc độ.

Thạch dân vốn là Yết tộc, nên xưng là Hồ tử. Lạc độ tức là ý của hồn phách bay lạc. Thạch Tuyên nghe lời này, sợ tái mặt, hỏi:

- Ðó là nghĩa gì?

Ngài bảo:

- Ta tu hành, làm Phật sự, đáng ra phải luôn ẩn cư nơi thâm sơn cùng cốc, mà ngược lại đi mặc áo lụa, ăn đồ cao sang. Ðây có phải là việc hưởng thụ sung sướng không (lạc độ)?

Thạch Thao lại đến chùa gặp Ngài. Vừa gặp mặt, Ngài nhìn trừng trừng, khiến Thạch Thao hoảng sợ, nên hỏi lý do. Ngài bảo:

- Ta thấy trên thân của Ngài có mùi máu tanh nồng nặc.

Song, cả hai Thạch Tuyên và Thạch Thao không hiểu lời của Ngài. Ðến tháng tám năm đó, Ngài bảo đồ chúng, quét dọn sạch sẽ am thất, cùng nghiêm trì trai giới, rồi tự thân tạm thời vào ẩn tu ở Ðông Các.

Thạch Hổ và hoàng hậu Ðỗ Thị hỏi rằng vì sao Ngài lại cư trú như thế. Ngài bảo:

- Khấu tặc gần ngay bên sườn. Chẳng quá mười ngày, sẽ có nghịch phản. Phía tây của Phật tháp, tức phía đông của Ðông Các này sẽ có máu đổ. Bất luận là việc gì Ðại Vương và Hoàng Hậu chớ có đi qua bên hướng đông!

Hoàng Hậu bảo:

- Hòa Thượng sao quá hồ đồ! Nơi đây làm sao có giặc.

Ngài bảo:

- Tham dục của con người là giặc. Già rồi thường hôn mê lầm loạn. Song, chỉ khiến người trẻ không hôn mê lầm loạn là đủ!

Hai ngày sau, quả nhiên Thạch Tuyên phái người đến giết Thạch Thao ngay trong chùa. Thạch Tuyên lại có ý đồ là định trong lúc làm lễ tang chế cho Thạch Thao, sẽ giết Thạch Hổ luôn. Nhờ nghe lời Ngài cảnh giác mà Thạch Hổ tránh được đại họa. Mưu cơ phản nghịch của Thạch Tuyên sau này bị bại lộ, nên bị Thạch Hổ bắt giam gia hình tàn nhẫn. Ngài thấy thế, bèn khuyên Thạch Hổ:

- Thạch Tuyên cũng là con của Ðại Vương. Hà tất vừa để tang một đứa con xong, lại tạo thêm tai họa! Nếu Ðại Vương dần cơn phẫn nộ, mà dùng đức từ ái, thì sẽ còn hưởng lộc hơn sáu mươi năm nữa. Nếu quyết định giết hắn, thì Thạch Tuyên sẽ biến thành sao chổi mà đốt cung điện Nghiệp Ðô.

Thạch Hổ không chịu nghe lời trung trực của Ngài, mà ra lịnh xiết vòng sắt nơi bụng của Thạch Tuyên và chất củi thiêu sống. Thạch Hổ lại còn đem hơn ba trăm cung quyến của Thạch Tuyên, cho xe cán chết phanh thây, rồi liệng thi thể nơi sông Chương Hà, khiến máu chảy lai láng. Ngài đã biết việc này không thể cứu vãn, nên bảo đồ đệ ngưng hành lễ trai hội.

Dẫu Ngài có dùng bao nhiêu lời lẽ khuyên răn, nhưng tánh tình hung bạo của Thạch Hổ thật khó sửa đổi.

Qua vài tháng sau, chợt có một con ngựa, lông bờm đều có dấu vết bị bỏng cháy, chạy từ cửa Trung Dương đến cửa Hiển Dương, lại chạy qua hướng tây bắc, rồi biến mất. Thấy việc này, Ngài bảo:

- Tai họa sắp đến!

Ðến tháng mười một, Thạch Hổ bày yến tiệc đãi quần thần trước cung điện Thái Võ. Ngài chợt cao tiếng xướng:

- Cung điện a! Cung điện a! Cây gai đã thành rừng, làm rách áo của người!

Quả nhiên, ngay nơi tảng đá bên ngoài cung điện, có một cây gai chợt mọc lên. Trở về chùa, Ngài ngước nhìn tượng Phật mà than:

- Buồn thay! Từ đây không còn được lễ kính nữa!

Lại tự hỏi và tự đáp:

- Có thể duy trì ba năm không?

- Không được! Không được!

- Có thể duy trì, hai năm, một năm, trăm ngày, một tháng chăng?

- Không được!

Ðến đây, Ngài ngưng không nói thêm lời nào, rồi trở về phòng, bảo Pháp Tộ:

- Năm Mậu Dần, họa loạn từ từ phát sanh. Ðến năm Kỷ Hợi, họ Thạch bị diệt vong. Trước họa loạn này phát sanh, Ta phải nhập diệt sớm.

Nói xong, Ngài lại bảo đệ tử mang thơ từ biệt gởi đến Thạch Hổ:

- Muôn sự muôn vật tất nhiên phải biến hóa, mà thân thể và tánh mạng cũng đồng như thế, chứ không thể giữ trường tồn mãi. Ta cũng như vậy, nên muốn nhập diệt. Lúc sống mông ơn Ðại Vương ân cần hậu đãi, nên nay đặc biệt báo tin cáo từ.

Thạch Hổ buồn bã bảo:

- Không nghe Hòa Thượng bị bịnh gì, sao lại muốn nhập tịch?

Nói xong, Thạch Hổ tự thân đến vấn an Ngài. Ngài bảo:

- Chết sống là lý lẽ bất biến. Thọ mạng dài ngắn cũng là chủ định, không thể tự mình kéo dài thêm. Phàm học đạo, phải trọng nơi đức hạnh vuông tròn. Ðức trọng tại nơi không làm biếng giải đãi. Nếu đức hạnh không khiếm khuyết, thì tuy chết cũng như sanh. Hành trái ngược với chánh đạo để được thân trường thọ vĩnh cữu, chẳng phải là ý nguyện của Ta. Dẫu Ðại Vương có tâm lễ kính Phật pháp, xây cất chùa chiền tráng lệ nguy nga, nhưng lại thi hành chánh sách bạo ngược, thì hiển nhiên bội ngược với thánh giáo. Không tỉnh ngộ để sửa đổi, thì mãi chẳng được phước lành. Nếu năng sám hối sửa đổi tâm tánh, thi ân bố đức đến dân lành, khiến vận nước được trường tồn, đạo tục đều khâm phục kính ngưỡng, thì Ta có mạng chung, cũng không hối hận!

Thạch Hổ khóc nức nở, biết Ngài sẽ viên tịch, nên sai người xây cất phần mộ. Mồng tám tháng chạp năm 348, ngài Phật Ðồ Trừng nhập tịch tại chùa Nghiệp Cung, được một trăm mười bảy tuổi. Sĩ thứ trong toàn quốc đều đau buồn bi thương như quốc tang.

Sau khi ngài Phật Ðồ Trừng viên tịch, Thạch Lặc mai táng Ngài tại Lâm Chương, phía tây của Sài Mạch. Thạch Hổ cũng tự tay liệm thân Ngài vào quan tài, rồi đem tích trượng y bát đặt vào trong đó.

Lúc Nhiễm Mẫn làm phụ chánh, ông ta mở quan tài ra, chỉ thấy có cây tích trượng và bình bát, mà không có thi thể. Dân chúng bảo nhau:

- Trong tháng mà ngài Phật Ðồ Trừng nhập tịch, có người thấy Ngài tại bên dòng sông.

Nghe việc này, Thạch Hổ sanh tâm nghi hoặc rằng Ngài cũng vẫn chưa nhập tịch, nên đến mở quan tài ra, nhưng không thấy thi thể.

Ngực bên trái của Ngài có một lỗ thủng, sâu bốn mươi phân, suốt đến trong bụng. Lúc còn tại thế, ruột trong bụng thường chảy ra, nên Ngài lấy bông và hoa ngăn lại. Ðọc kinh sách vào ban tối, Ngài mở bông hoa ra, thì chợt có ánh hào quang tỏa sáng, khiến cả phòng thất đều sáng ngời. Ðến những ngày trai, Ngài thường đến bên dòng nước, lấy ruột ra mà tẩy rửa, rồi lại bỏ vô bụng như cũ.

Ngài Phật Ðồ Trừng nhập tịch chẳng bao lâu, Lương Ðộc nổi loạn. Năm kế, Thạch Hổ mất, Nhiễm Mẫn soán ngôi vị, đổi quốc hiệu là Ngụy, nên sử gọi là Nhiễm Ngụy. Lên ngôi, Nhiễm Mẫn giết sạch gia tộc họ Thạch. Nghĩa tên lót của Nhiễm Mẫn là 'cây gai', ứng hợp với lời tiên tri của ngài Phật Ðồ Trừng khi xưa:" Gai thành rừng, đâm thủng áo người."

Chiến loạn vừa bộc phát, Ngài thương cho dân chúng vô tội bị giết hại, nên hiển thị thần thông để cảm hóa Thạch Lặc tại Tương Quốc và Thạch Hổ tại Nghiệp Ðô. Ngài dùng mật chú để cứu bao sanh linh, và dùng mùi hương để cứu người trong hiểm nạn; nghe tiếng linh kêu và ngồi tọa một nơi mà biết việc may rủi, nên được Thạch Lặc và Thạch Hổ tôn sùng kính ngưỡng. Tử tôn là Thạch Tuyên và Thạch Thao cũng thường lui tới thỉnh giáo. Ngài ân cần khuyên nhủ họ Thạch tánh khí cuồng bạo, khiến chúng dân được thấm nhuần ân huệ.

Nếu không có ngài Phật Ðồ Trừng thì với tánh khí thô cuồng bạo ngược của Thạch Lặc và Thạch Hổ, không biết bao nhiêu sanh mạng dân lành đã bị phanh thây, mà bút mực cũng sẽ khó ghi chép cho hết. Ðối với Thạch Lặc và Thạch Hổ, Ngài thường bỏ rất nhiều công sức tâm lực để răn nhắc, khuyến hóa họ, rằng phải nên dùng tinh thần từ bi hỷ xả của Phật giáo mà trị quốc an dân. Ngài dùng thần lực cứu độ địa ngục trần gian vào đương thời. Các vua chúa ngũ Hồ mười sáu nước thường giết người như tợ giết trâu bò mà không phân biệt. Phật giáo chủ trương không giết hại. Trải qua bao đời, Hồ tộc cũng thường tín phụng Phật pháp, nên giảm bớt tập tánh cuồng bạo. Ðấy là sự cống hiến tích cực của Phật giáo vào đương thời.

Thân của Ngài cao tám thước, cử chỉ nhu hòa, từ tốn. Những kinh điển thâm sâu, Ngài đều hiểu rõ, cùng thông suốt sách vở kinh luận thế tục. Lúc giảng kinh, Ngài chỉ đề xuất ra tông chỉ, khiến thính giả tự nhiên quán thông đầu đuôi, và hiểu rõ nghĩa lý.

Cuộc đời hành đạo của ngài Phật Ðồ Trừng không những dùng thần lực để hóa độ các vua chúa quần thần dân chúng mà cũng thường chú trọng vào việc giảng kinh thuyết pháp, cùng sáng lập chùa chiền. Cao Tăng Truyện viết:" Ngài Phật Ðồ Trừng liễu giải kinh điển thâm diệu, lại thông thế luận."

Tuy không phải là một đại dịch giả như ngài Trúc Pháp Hộ, đối với chân nghĩa của kinh điển, cùng các trước luận của thế gian Ngài đều thâm hiểu liễu giải và tinh thông.

Lúc giảng giải kinh điển, Ngài có thể diễn đạt chính xác về căn bản yếu chỉ, khiến cho các thính giả đều hiểu rõ nghĩa lý văn chương tường tận từ đầu đến cuối. Không những dùng những ngôn từ thâm thúy để giảng giải kinh điển, mà Ngài còn áp dụng tinh thần từ bi hỷ xả đến với quần chúng, cùng tận tâm giải cứu họ trong những lúc khổ nạn tai họa bức bách nguy hiểm.

Sự hoằng dương Phật pháp của Ngài, không những ảnh hưởng rộng khắp Trung Thổ mà còn lan rộng đến Thiên Trúc, khiến cho hàng chục vị danh tăng từ Thiên Trúc, Khương Cư, v.v... không quản muôn dặm đường xa, lội qua bao bãi sa mạc, cùng trèo non lội suối để cầu mong lời giáo huấn như ngài Phật Ðiều, Tu Bồ Ðề, v.v... Trong nước, các ngài Ðạo An, Trúc Pháp Nhã, v.v... cũng vượt núi sông ải hà mà đến nghe Ngài giảng kinh thuyết pháp. Tất cả đều liễu đạt diệu lý u huyền vi diệu thâm sâu.

Ngài Phật Ðồ Trừng từng bảo:

- Nơi Ta xuất sanh cách Nghiệp Ðô hơn chín trăm ngàn dặm; bỏ nhà vào đạo một trăm lẻ chín năm; răng không bao giờ chạm rượu; qua giờ ngọ không dùng cơm; chẳng đúng theo giới luật thì không hành; chẳng có tham dục, và chẳng hằng mong cầu; người đến cầu đạo từ các miền xa xuôi có hơn cả trăm; đồ chúng trước sau có hàng trăm ngàn; kiến tạo chùa chiền khắp Trung Thổ cả tám trăm chín mươi ba ngôi; hoằng pháp hưng thịnh, chẳng đồng với những vị khi trước.

Ngài Phật Ðồ Trừng tụ bảo rằng nơi xuất sanh cách xa Nghiệp Ðô hơn chín trăm ngàn dặm, tức là Thiên Trúc. Ngài được một trăm lẻ chín hạ lạp. Viên tịch vào năm một trăm mười bảy tuổi (348), tức là tám tuổi đã xuất gia. Ngài đến Lạc Dương vào năm bảy mươi chín tuổi, tức cuối đời Tây Tấn, niên hiệu Vĩnh Gia thứ tư (310).

'Rượu không chạm răng, quá ngọ không ăn, chẳng hợp với giới luật thì không hành, không tham dục, không mong cầu', chứng minh rằng ngài Phật Ðồ Trừng không những tự có đầy đủ thần lực đạo thuật dị thường, mà cũng tự thân tôn sùng, nghiêm trì giới luật thực tiễn. Không uống rượu, tức giữ giới không uống rượu. Qua giờ ngọ không dùng cơm, tức là thủ trì giới không ăn phi thời. Tất cả hành vi đều không đi ngược lại với giới luật, và chẳng hề khởi tâm tham dục cùng mong cầu.

Ngài Ðạo An đã từng đến thành Nghiệp Ðô học giới luật dưới tòa của ngài Phật Ðồ Trừng. Song, ngài Ðạo An chỉ học được một phần ít, chứ chẳng hoàn toàn. Ngài Ðạo An lại gặp thời cuộc loạn ly, nên cứ chạy lánh nạn mãi. Ðến năm 370, ngài Ðạo An từ Tương Dương đến Trường An, nghe đạo nhân ngoại quốc, Ðàm Ma, trì tụng bộ giới luật tiểu thừa A Tỳ Ðàm, nên gia tăng thêm kiến thức về giới luật. Sau này, ngài Ðạo An lại thỉnh sa môn Trúc Pháp Niệm ở Lương Châu sao viết bản giới luật bằng chữ Phạn, và thỉnh ngài Ðạo Hiền phiên dịch, Huệ Thường ghi chép. Dịch từ mùa hạ đến mùa đông thì hoàn tất, nên mới có nguyên bộ luật tỳ kheo giới bổn. Từ khi quyển giới luật này được phiên dịch xong, thì thấy rõ là những quyển giới luật đã được trước kia đa số đều sai nhầm. Ngài Ðạo An xem giới luật Phật giáo cùng lễ tiết ở Trung Thổ đều đồng quan trọng, nên nghiêm chỉnh thực tiển hành trì. Vì vậy, lúc hoằng dương chánh pháp, ngài Ðạo An đặc biệt chú trọng về giới luật. Kỳ thật đó là ngài Ðạo An tiếp thừa đạo phong của ngài Phật Ðồ Trừng.

Ngài Phật Ðồ Trừng tự bảo rằng đồ chúng có trăm ngàn người, và lập tám trăm chín mươi ba ngôi chùa. Công cuộc hoằng dương Phật pháp của ngài Phật Ðồ Trừng tại Trung Thổ thật vĩ đại hiếm hoi. Nhờ tận mắt chứng kiến những năng lực thần kỳ dị thường kiệt xuất của ngài Phật Ðồ Trừng mà tín chúng đua nhau cúng dường tài vật để xây cất chùa chiền. Vì Ngài không có tham dục, lại chẳng mong cầu, nên chưa hề cất giữ tiền bạc riêng tư, mà chỉ dùng hết những tài vật được cúng dường dành vào việc xây chùa dựng tháp, hoằng dương Phật pháp, khiến Phật giáo hưng long khắp miền Trung Thổ.

Không những kiến tạo chùa chiền, mà Ngài còn thực hành những lễ nghi của Phật giáo như hành lễ Phật đản. Theo Cao Tăng Truyện thì cứ vào dịp lễ Phật đản, tức mồng tám tháng tư, Thạch Lặc thường tự thân đến chùa dự lễ tắm Phật. Vì Ngài đã từng dùng thần lực để cứu sống Thạch Bân, nên Thạch Lặc thường gởi gắm con cháu tại chùa, khiến cho những đứa bé kia được thọ sự cảm hóa của Phật pháp, để sau này tín thọ phụng hành.

Vào thời của Thạch Lặc, Trung Thổ đã từng khởi xướng đại lễ hành tượng vào ngày lễ Phật đản, tức mồng tám tháng tư. Quyển Ðông Tấn Lăng hội, Nghiệp Trung Ký, viết:" Thạch Lặc thường cho làm xe bốn bánh bằng gỗ chiên đàn, rộng hơn mười thước, dài hơn hai trăm thước; làm tượng Phật bằng vàng, đặt để trên xe đó; trên có hình chín con rồng đang phun nước. Lại làm đạo nhân bằng gỗ, dùng tay xoa bụng Phật; lại làm hơn mười đạo nhân bằng gỗ, cao hơn hai thước, đều mặc y ca sa mà đi kinh hành vây nhiễu lễ Phật, rồi lại tự tay cắm hương vào lư hương, giống như người thật không khác biệt. Xe chạy tức người gỗ đi theo, cùng rồng phun nước. Xe ngung thì tất cả đều ngừng."

Thạch Lặc cho người chế tạo xe bằng gỗ chiên đàn, rồi lại làm chín con rồng phun nước và đạo nhân bằng gỗ xoa bụng Phật để biểu thị động tác tắm Phật. Làm hơn mười đạo nhân bằng gỗ, đắp y ca sa, đi kinh hành quanh bốn bên, và dâng hương lễ bái, để biểu thị sự cầu mong nhân gian thái bình an lạc.

Kế thừa phong tục làm lễ hành tượng của ngũ Hồ mười sáu nước tại Hoa Bắc, vua Bắc Ngụy Thái Võ Ðế, niên hiệu Ðịnh Ðô Ðại Ðồng, trong những năm vừa lên ngôi, cũng làm lễ hành tượng như thế vào ngày Phật đản. Ngụy Thư Thích Lão Chí, viết:" Thế Tổ vừa lên ngôi, cũng tôn theo nghiệp của Thái Tổ và Thái Tông, thường cùng các vị sa môn cao đức luận đàm Phật pháp. Ðến mồng tám tháng tư, làm lễ diễn hành tượng Phật, tới khắp đường lộ. Vua tự thân ngự trên cửa thành, rải hoa cúng dường, cho đến lễ bái."

Ðời Ðông Hán, Phật giáo được tiếp nạp vào nước Tàu từ vua Sở Vương Anh, Tạc Dung, Hán Hoàng Ðế, v.v... Họ xem Phật giáo cũng như Ðao giáo, nên trở thành Phật giáo theo hình thức thần tiên hay Phật giáo theo hình thức Ðạo giáo, mà những việc quan trọng nhất là cầu mưa hay chữa bịnh tật. Ðời Tam Quốc, các ngài Trúc Pháp Hộ, Chi Khiêm phiên dịch rất nhiều kinh điển, nhưng đối với quần chúng thì thật rất khó thấm nhuần, hay hiểu nghĩa lý Phật pháp. Họ chỉ tôn sùng lý thanh tịnh, không tham dục mà thôi. Do đó, họ chỉ cần cầu nơi Phật giáo những việc như cầu mưa, chữa bịnh, hoặc hiển hiện những điềm linh ứng kỳ dị. Ðáp ứng với lòng mong cầu ngưỡng mộ các thuật thần bí kỳ dị của quần chúng, ngài Phật Ðồ Trừng đến Hoa Bắc, dùng năng lực thần thông để cảm hóa họ. Nếu ngài Phật Ðồ Trừng chỉ chuyên ròng phiên dịch kinh điển, thì e rằng công cuộc hoằng dương Phật pháp ít có hữu hiệu.

Những vị đại đệ tử của ngài Phật Ðồ Trừng.

A/ Ngài Phật Ðiều.

Ngài Phật Ðiều từ Thiên Trúc sang học đạo với ngài Phật Ðồ Trừng, và thường cư trú nơi chùa Thường Sơn. Ngài Phật Ðiều cũng có những năng lực thần dị, và đã từng hiển hiện bao loại thần biến như ngài Phật Ðồ Trừng, lại cũng từng vào hang hổ trên núi, dự biết giờ phút lâm chung. Sau này đột nhiên mà thị tịch. Qua vài năm kế, tám người đệ tử cư sĩ vào Sơn Tây để đốn củi, lại thấy ngài Phật Ðiều đang ngồi trên tảng đá cao. Họ kinh hoàng, hỏi:

- Hòa thượng vẫn còn sống à!

Ngài đáp:

- Ta tự đang sống!

Trở về, họ tìm đến nơi chôn cất của Ngài, rồi mở quan tài ra, mà chẳng thấy thi thể.

(Ngài Phật Ðiều và Nghiêm Phật Ðiều hoàn toàn khác nhau. Ngài Phật Ðiều là người Thiên Trúc, và là đệ tử của ngài Phật Ðồ Trừng. Ngài Nghiêm Phật Ðiều là người Tàu, vị đã từng dịch kinh Pháp Kính cùng Sa Di Thập Huệ Chương Cú vào thời Hán Linh Ðế.)

Trong các vị đại đệ tử của ngài Phật Ðồ Trừng, nổi bậc nhất là ngài Ðạo An, Trúc Pháp Nhã, và Tăng Lãng.

B/ Ngài Ðạo An, lập nền tảng vững chắc cho Phật giáo Trung Quốc

Vào thời Ðông Hán, các nhà dịch giả Thiên Trúc, bắt đầu phiên dịch kinh điển từ tiếng Phạn sang tiếng Tàu là ngài An Thế Cao và Chi Lâu Ca Sấm. Nhìn về phương diện truyền bá và phiên dịch kinh điển tiểu thừa thì ngài An Thế Cao là vị kiệt xuất nhất, nên được thế nhân mãi tôn sùng kính ngưỡng.

Tuyển thuật viết lời tựa, và liệt kê sao lục cho các bộ kinh do ngài An Thế Cao cùng các nhà dịch giả khác vào buổi sơ thời của Phật giáo là ngài Ðạo An. Ðịa vị của ngài Ðạo An trong sơ kỳ Phật giáo rất quan trọng. Thật vậy, ba vĩ nhân của Phật giáo sơ kỳ là ngài Phật Ðồ Trừng, Cưu Ma La Thập, và Ðạo An.

Ngài Ðạo An sanh vào niên hiệu Vĩnh Gia, cuối đời Tây Tấn (312), người Phù Liễu ở Thường Sơn (gần huyện Chánh Ðịnh, tỉnh Hà Bắc), tên tục là Vệ, gia thế thuộc hàng nho gia sĩ thứ. Ðương thời, vì ngũ Hồ mười sáu nước chiếm cứ vùng Hoa Bắc, nên các cao tăng danh sĩ đều từ từ di cư vào nam, đến lưư vực sông Trường Giang ở Kiến Nghiệp (Nam Kinh). Nền văn hóa ở phương bắc cũng được di chuyển vào phương nam, nên nền văn hóa tại vùng Hoa Bắc dần dần suy đồi.

Thời ấy, Phật giáo đã phát triển tại vùng Thường Sơn. Y cứ theo 'Tỳ Kheo Ny Truyện', quyển một có viết về tỳ kheo ny Trí Hiền. Sư cô vốn là người Thường Sơn, họ Triệu; cha tên là Trân. Thái thú Ðỗ Bá vốn tin đạo Hoàng Lão mà ghét đạo Phật. Ðương thời vua Phù Kiên ra lịnh tra xét tự viện. Ðỗ Bá nhân dịp đến khám xét chùa chiền, thấy sư cô Trí Hiền dung nhan thanh nhã, tiếng nói trong trẻo, nên phát khởi tà tâm. Do đó, Ðỗ Bá ra lịnh cho sư cô Trí Hiền cư trú một mình, rồi bức bách giao tình. Sư cô Trí Hiền cự tuyệt, thà chết chứ không phá giới. Ðỗ Bá tức giận cầm đao hành hung, chém sư cô Trí Hiền hơn hai mươi nhát, khiến không thể đi nổi. Bỏ đi một hồi, Ðỗ Bá chợt tỉnh ngộ sám hối. Từ đó, Ðỗ Bá chuyên cần tinh tấn ăn chay, giữ giới hạnh, khiến cho vua Phù Kiên cũng tôn trọng. Ðỗ Bá cũng thường may y ca sa cúng dường tăng chúng.

Qua câu chuyện này chứng minh rằng tại Thường Sơn vào thời ngài Ðạo An xuất sanh, Phật giáo đã được phát triển rộng rãi, nên mới có tăng ni tu đạo.

Vì cha mẹ mất sớm, nên ngài Ðạo An được nghĩa huynh Khổng Ðể nuôi dưỡng thành nhân.

Năm bảy tuổi, ngài Ðạo An đã thông suốt văn nghĩa của ngũ kinh. Ðối với các thư tịch, chỉ xem qua một hai lần là Ngài liền nhớ rõ, khiến cho dân chúng trong vùng rất kính phục. Tuy thiên tánh minh mẫn, nhưng dung mạo lại rất xấu xí. Trên bắp tay của Ngài nổi một cục thịt lớn tròn cả tấc, có thể kéo lên hay xuống. Người đời sau nhân đó mà gọi Ngài là Bồ Tát Ấn Thủ.

Khi xuất gia vào năm mười hai tuổi, thầy bổn sư của Ngài coi rẻ, nên chỉ bảo ra đồng làm ruộng. Suốt ba năm liền, Ngài cần cù lao động, không có chút oán hờn phẩn uất. Trong thời gian đó, Ngài nghiêm trì giới luật, không phạm chút tơ hào. Vài năm sau, Ngài mới cầu thỉnh vị thầy bổn sư chỉ dạy kinh điển. Vị thầy bổn sư bèn đưa cho quyển kinh Biện Ý Trưởng Giả, có hơn năm ngàn lời. Ngài mang bộ kinh ra ngoài đồng. Lợi dụng giờ nghỉ giải lao, Ngài xem qua bộ kinh này, rồi chiều tối trở về chùa đưa lại cho thầy bổn sư, và cầu thỉnh thêm một bộ kinh khác. Thầy bổn sư trách cứ:

- Hôm qua Ta đã đưa cho con bộ kinh này. Chưa kịp xem tường tận, vội trả lại cho Ta, sao lại cầu thêm quyển khác?

Ngài thưa:

- Con đã học thuộc bộ kinh đó rồi, và có thể tự đọc tụng lại được!

Thầy bổn sư nửa tin nửa ngờ khi nghe lời này, nhưng lại đưa thêm quyển kinh Thành Cụ Quang Minh Ðịnh Ý, có khoảng một trăm ngàn lời. (Quyển kinh này do ngài Chi Lâu Ca Sấm và Chi Diệu dịch ra hai bản khác nhau. Ðây là bộ kinh thuộc hệ Ðại Thừa, nên nghĩa lý thâm sâu, chẳng dễ dàng liễu giải. Hiện nay được để trong Ðại Tạng Tân Tu, Ðại Tạng Kinh, quyển thứ mười lăm. Bộ kinh này cũng được gọi là Thành Cụ Quang Minh Tam Muội.)

Giống như lúc trước, chỉ trong một ngày, ngài Ðạo An đã học thuộc xong bộ kinh Thành Cụ Quang Minh Ðịnh Ý, nên trở về chùa, trả lại cho thầy bổn sư. Việc này khiến cho thầy bổn sư lại càng thêm nghi hoặc, nên bảo ngài Ðạo An đọc lại xem sao. Ngài bèn đọc thuộc làu, không sót một chữ. Thầy bổn sư thấy vậy, bèn rất kinh ngạc và nhận rõ tài năng của ngài Ðạo An. Sau này, ngài Ðạo An y theo thầy bổn sư mà thọ giới cụ túc. Trước khi thọ giới cụ túc, Ngài đã từng gặp thầy Tăng Tiên. Y cứ theo quyển 'Cao tăng Truyện' thứ năm, thì thầy Tăng Tiên là người Ký Châu, đệ tử của Thường Sơn Nhuận. Ngài và thầy Tăng Tiên rất tâm đầu ý hợp, nên trước lúc chia tay đã từng hẹn nhau:

- Khi về già, chớ quên đồng học!

Thọ giới cụ túc xong, thầy bổn sư của Ngài bảo hãy đi tham vấn học đạo nơi ngài Phật Ðồ Trừng. Ðương thời, gặp lúc ngũ Hồ mười sáu nước đang giao chiến, biến loạn khắp nơi, nên Ngài chạy lánh nạn qua vùng Sơn Tây. Trong bài tựa về kinh Ðạo Ðịa, Ngài có viết rằng vốn sanh vào thời Tây Tấn diệt vong, lúc quân Hung nô kéo quân xâm lược vùng Hoa Bắc, thầy bổn sư mất, xa rời các pháp hữu, nên tị nạn đến Sơn Tây, ở núi Tấn Sơn. Lúc ấy, sa môn Chi Ðàm Giảng tại Nhạn Môn, sa môn Trúc Tăng Phụ (người Thiên Trúc, trì giới luật tinh nghiêm, học các luận, thông suốt kinh điển) ở Nghiệp Ðô, sa môn Trúc Pháp Tể ở Thái Dương (Trúc Pháp Tể là vị viết quyển 'Cao Dật Sa Môn Truyện', và là đệ tử lớn của Trúc Pháp Tiềm), cùng với Ngài nghiên cứu kinh Ðạo Ðịa và kinh Âm Trì Nhập. Kế đến, Ngài tới chùa Thượng Minh ở Kinh Châu, phát tâm tín ngưỡng Bồ Tát Di Lặc, rồi lại qua núi Phi Long gặp thầy Tăng Tiên (pháp hữu khi xưa ở Thường Sơn) đang ẩn cư nơi đó.

Vào năm 335, Ngài tìm đến thân cận ngài Phật Ðồ Trừng tại một ngôi chùa trong thành Nghiệp Ðô. Lúc đó, Ngài được hai mươi lăm tuổi, và Phật Ðồ Trừng đã được một trăm lẻ bốn tuổi. Ðương thời, Thạch Hổ đã dời đô về Nghiệp Ðô. Vừa thấy ngài Ðạo An, ngài Phật Ðồ Trừng bèn tán thán không ngừng, và đàm luận suốt cả ngày. Thấy dung mạo của Ngài xấu xí, nên đại chúng khởi tâm khinh khi. Ngài Phật Ðồ Trừng bèn bảo họ:

- Người này có kiến thức thâm sâu, bác học xa vời mà các ngươi chẳng hề bì kịp!

Ngài tín phụng tôn ngài Phật Ðồ Trừng làm thầy. Mỗi lần giảng kinh xong, ngài Phật Ðồ Trừng đều bảo Ngài giảng lại, mà đại chúng không tín phục. Lần nọ, đại chúng cùng nhau bảo:

- Ðợi gã Côn Lôn (chỉ cho ngài Ðạo An có sắc mặt đen thui) nghị luận, chúng ta quyết định sẽ chất vấn cho thua mới được.

Ngài vừa giảng lại những lời của ngài Phật Ðồ Trừng xong thì đại chúng liên tiếp chất vấn. Ðối với những nghi vấn xâu xa của đại chúng đồng học, mỗi mỗi Ngài đều đối đáp giải thích rành rẽ, nên mọi người đều tâm phục khẩu phục, bảo:

- Lời của Tất đạo nhân làm kinh hoàng bốn làng.

Ngài theo hầu thầy mình suốt mười bốn năm, mãi cho đến khi ngài Phật Ðồ Trừng nhập tịch vào năm 348. Ðược ngài Phật Ðồ Trừng giảng giải những điểm trọng yếu của kinh điển, nên Ngài lãnh hội thâm sâu. Lại nữa, nhờ học theo đạo phong oai đức nghiêm trì giới luật cẩn mật của ngài Phật Ðồ Trừng mà sau này trong công nghiệp hoằng dương chánh pháp, Ngài luôn chú trọng về phần giới luật. Theo bài tựa về giới luật của Tỳ Kheo, ngài Ðạo An viết về giáo pháp của đức Thế Tôn trong quyển 'Xuất Tam Tạng Ký Tập' như sau:" Ba pháp giới luật, thiền định, trí huệ được gọi là cửa ngõ vào đạo, và là pháp nhập Niết Bàn trọng yếu. Giới luật là đoạn ba việc ác. Thiền định phòng ngừa, ngăn chặn vọng tưởng phân tán. Trí huệ là thang thuốc vi diệu cứu tất cả bịnh trạng. Ðầy đủ ba pháp này thì mới có thể đắc đạo. Dùng ba pháp này cũng là tùy thuận với đạo. Bất luận tại gia hay xuất gia, việc trước nhất là phải giữ giới, tức lấy giới làm căn bản. Nhờ giới luật mà kiểm điểm hình thể. Hình thể là thuyền bè của trăm hạnh. Hình thể của người phải được cẩn trọng giữ gìn. Nếu không giữ oai nghi nghiêm túc, thì trong cuộc sống sẽ làm tổn thương giới luật. Nếu phá giới luật tất phải đọa vào ba đường ác. Do đó, đức Như Lai lấy giới luật làm sự trọng yếu nhất trong tam tạng giáo điển. Tại nước ngoài cũng tôn sùng giới luật. Mỗi ngôi chùa đều có các vị lập trì luật. Vị nhậm chức giám đốc trì luật, mỗi tháng thuyết giới trước đại chúng. Ngày thuyết giới, từ tối đến sáng chuyên tụng đọc tất cả kinh điển, hỗ tương thúc giục duy trì giới luật. Nếu có ai phạm giới, sẽ bị đuổi ngay."

Ngài lại viết:" Ðại pháp sơ truyền vào Ðông Ðộ đến nay chưa lâu cho lắm. Chư sư đã từng thọ giới từ đời Tần Thủy Hoàng, mà các vị dịch giả về giới luật lại rất hiếm, nên người trước chỉ kế tục tương truyền người sau. Ðến đời Ðồ Hòa Thượng, đa phần chấn chỉnh! Tôi tích xưa tại Nghiệp Ðô đã theo học ít phần, nhưng cũng chưa đủ hoàn toàn, rồi gặp đời loạn lạc, thật tiếc lắm thay!"

Ðương thời, Ngài đã từng trú tại núi Hằng Sơn, nhưng cũng thường qua lại Nghiệp Ðô. Khi đến núi Hằng Sơn ở Thái Hành, Ngài xây chùa viện và sửa đổi y phục thế tục, trở thành y phục người xuất gia. Từ đó, chùa viện trên núi Hằng Sơn là trung tâm hoằng dương Phật pháp của Ngài. Thái thú Lô Hâm ở Võ Ba, nghe danh tiếng giới hạnh thanh cao của Ngài, nên nhờ sa môn Mẫn Kiến thỉnh Ngài khai giảng kinh điển. Song, Ngài từ chối, nhưng Lô Hâm cứ cầu thỉnh, nên cuối cùng Ngài phải đăng đàn giảng kinh. Vì Ngài là vị đã từng thực lực nghiên cứu kinh điển, cùng thanh danh giới hạnh cao thâm, nên chư tăng kẻ tục kéo đến nghe giảng kinh. Mỗi lần Ngài giảng kinh, ai ai cũng đều tán thán. Lúc ấy, Ngài Huệ Viễn được hai mươi mốt tuổi, cùng ngài Huệ Trì mười tám tuổi, đồng đến Hằng Sơn, làm môn đệ của ngài Ðạo An. Theo quyển 'Cao Tăng Truyện' thứ sáu thì ngài Huệ Viễn vốn muốn đến Giang Ðông để theo ông Phạm Tuyên Tử học pháp ẩn độn. Song, vì chiến loạn lan tràn khắp nơi, nên ngài Huệ Viễn không thể vào nam được. May mắn, ngài Huệ Viễn gặp được ngài Ðạo An tại Quan Tả. Vừa gặp được ngài Ðạo An thì ngài Huệ Viễn bèn vui mừng nói:

- Vị này chính là Thầy của Ta!

Thạch Hổ mất, Thạch Ðạo kế vị, rồi phái sa môn Trú Xương Bồ đến đón Ngài về trú tại Hoa Lâm Viên, và cho xây dựng phòng xá nơi đó. Trú nơi đó qua một thời gian, Ngài cảm thấy hậu vận của triều Hậu Triệu sắp đến hồi nguy nan, nên dẫn đồ chúng rời Hoa Lâm Viên, tới núi Khiên Khẩu. Quả nhiên, Nhiễm Mẫn nổi loạn vào năm 350, khiến Hậu Triệu diệt vong. Ngài bảo đồ chúng:

- Ngày nay thiên tai, sâu bọ hoành hành, trộm cướp bốn bề nổi dậy. Chúng ta đồng tụ hội nơi đây, chung sống rất khó khăn chật vật, nhưng lại không thể phân tán ly khai. Thật là điều nan giải!

Do đó, Ngài lại dẫn đồ chúng đến Vương-ốc ở núi Nữ Lâm, rồi làm ruộng sinh sống. Song, vì nơi đó cũng không an toàn, nên chẳng bao lâu, Ngài lại dẫn đồ chúng qua sông Hoàng Hà, đến Lục Hồn, cư trú trong hang động, hái rau quả dại mà sinh sống qua ngày, nhưng vẫn không bỏ việc tu học. Song, khổ nạn vẫn chưa hết. Lúc ấy, Yến Ðích, Mộ Dung Tuấn dẫn quân tiến đánh Nhiễm Mẫn. Ðại quân vây hãm Lục Hồn, nên một mình Ngài lánh nạn xuống miền nam tại Tương Dương. Khi đồ chúng kéo đến nơi Tân Dã, mà nơi đó cũng không được thái bình, nên Ngài bảo:

- Hiện tại, chúng ta đang gặp thời vận xấu, chiến tranh loạn lạc. Nếu không có một quốc vương nào hộ trì, thì công việc hoằng dương Phật pháp thật khó hoàn thành. Giáo hóa chúng sanh càng nhiều càng tốt. Nếu được quốc vương hộ trì thì việc này sẽ dễ dàng.

Ðồ chúng đều thưa:

- Tất cả mọi việc, chúng con đều nghe theo lời của Ngài.

Ngài bảo Trúc Pháp Thái đến Dương Châu, và nói:

- Nơi đó có rất nhiều hiền nhân quân tử. Họ đều tôn sùng Phật pháp.

Sở dĩ Ngài nói ra lời này vì trong hoàn cảnh loạn lạc, muốn duy trì tăng đoàn, phải cần nhờ sự hộ trì của một vị đại thí chủ. Thế nên, Ngài dẫn đồ chúng đến Tương Dương.

Theo quyển 'Cao Tăng Truyện' thứ năm thì Trúc Pháp Thái vốn là pháp hữu đồng học với Ngài vào thưở thiếu niên. Ðương thời, Trúc Pháp Thái cùng Ngài chạy lánh nạn đến Tân Dã. Sau này, Ngài bảo Trúc Pháp Thái xuống kinh đô. Lúc chia tay, Trúc Pháp Thái nói:

- Pháp Sư hoằng dương giáo nghĩa, quy tại miềm Tây Bắc. Tôi phải về đông nam mà hoằng dương Phật pháp. Mỗi chúng ta có mỗi nơi hoằng pháp khác nhau. Hôm nay, trịnh trọng chia tay. Hẹn tương lai sẽ gặp nơi cõi Tịnh Ðộ.

Sau đó, Trúc Pháp Thái xuống Dương Châu cùng với hơn bốn mươi đồ đệ như Ðàm Nhất, Ðàm Nhị, v.v... Tại Dương Khẩu ở phía đông sông Trường Giang, nằm trên đường đến Dương Châu, Trúc Pháp Thái bị bịnh nặng, nên đành phải trú lại nơi đó. Chánh Trị Hoàn Ôn đang thống trị Kinh Châu, nên sai người mang đồ đến cúng dường cho Trúc Pháp Thái. Ngài Ðạo An cũng phái đệ tử là Huệ Viễn đến thăm hỏi bịnh tình của Trúc Pháp Thái.

Ngài lại bảo Trúc Pháp Hòa vào Tứ Xuyên để tu thiền:

- Nơi đó núi non hùng vĩ nguy nga, chính là chỗ tu hành rất tốt.

Theo quyển 'Cao Tăng Truyện' thì thầy Trúc Pháp Hòa là pháp hữu đồng học của ngài Ðạo An vào lúc nhỏ. Thầy Trúc Pháp Hòa là vị nổi tiếng về đức hạnh cung kính khiêm nhượng. Thầy y theo lời dạy của ngài Ðạo An, và vì muốn bảo toàn giáo đoàn khỏi bị phân tán, nên dẫn chư đồ đệ vào vùng Tứ Xuyên. Nơi đó, danh đức của thầy Trúc Pháp Hòa lại càng vang lừng. Sau này, nghe tin Tương Dương bị chiến loạn, nên rời Tứ Xuyên, đến Trường An, trụ tại chùa Dương Bình. Thứ đến, thầy Trúc Pháp Hòa lại cùng với ngài Ðạo An qua cốc Kim Dư của ngài Tăng Lãng.

Vừa chia tay với thầy Trúc Pháp Thái và Trúc Pháp Hòa, Ngài lại dẫn hơn năm trăm đồ chúng như Huệ viễn, v.v... thẳng đến Tương Dương, hầu mong tìm đạo tràng rộng rãi để có thể dung chứa hàng trăm đồ chúng. Năm đó, Ngài đã trên năm mươi tuổi.

Lần nọ, vừa qua sông Bạch Hà thì trời sẩm tối, rồi một cơn mưa to đổ xuống. Ngài và đồ chúng không có nơi trú ẩn, nên chỉ cứ tiếp tục dầm mưa thẳng bước. Trên đường, họ đi ngang qua một căn nhà. Trước cửa nhà có hai cây cột; chính giữa có treo một bồn cỏ, dung lượng khoảng một đấu. Thấy như thế, Ngài bèn gọi to:

- Lâm Bách Thăng!

Chủ nhân kinh hoàng chạy ra, vì tên của ông ta chính là Lâm Bách Thăng. Chưa từng gặp nhau mà bị gọi đúng tên, nên chủ nhân này rất thán phục thần lực của Ngài, bèn tiếp đãi nồng hậu. Ðồ chúng sau này hỏi:

- Sao Thầy lại biết được danh tánh của người chủ nhân kia?

Ngài nói:

- Hai cây cột trụ hợp lại thành 'Lâm'. Chính giữa có treo một bồn cỏ, dung lượng khoảng một đấu, tức là 'Bách Thăng' (một đấu bằng một trăm thặng lúa). Hợp lài thành Lâm Bách Thăng!

Ðến Tương Dương, Ngài bắt tay ngay vào công cuộc hoằng dương Phật pháp. Ðương thời, tướng quân chinh tây Hoàn Lãng Tử đang trấn nhậm tại Giang Lăng, phái người đến mời Ngài qua tạm trú tại Giang Lăng. Thế đến, quan trấn thủ Tương Dương là Châu Tự thỉnh Ngài trở về Tương Dương. Thấy chùa Bạch Mã quá chật hẹp, không thể dung chứa hết tăng chúng, nên Châu Tự giúp Ngài xây chùa Ðàn Khê. Sau này, có rất nhiều danh sĩ tán trợ giúp đỡ việc xây chùa. Ngoài ra, Ngài còn cho xây tháp Phật năm tầng, và tạo hơn bốn trăm tăng phòng. Quan thứ sử ở Lương Châu gởi vạn cân đồng đến cho Ngài tạo tượng Phật cao mười sáu thước, thần thái sáng ngời. Vua Tiền Tần là Phù Kiên cũng phái quan mua kim bạc để tạo một tôn tượng Phật nằm, cao bảy thước. Ngoài ra còn có một tôn tượng Phật bằng vàng, một tôn tượng Phật Di Lặc bằng châu ngọc, một tôn tượng Phật bằng vải kim tuyến, một tôn tượng Phật bằng gấm. Mỗi lần có pháp hội giảng kinh, các tôn tượng Phật được đặt trong hội trường giảng kinh, rồi bố trí tràng phan bảo cái; những hạt châu chung quanh tượng Phật chiếu soi ánh sáng kim quang lóng lánh. Tín chúng đến tham dự pháp hội giảng kinh, không thể chẳng khởi tâm thành cung kính, lễ bái. Song, có một tượng đồng từ nước ngoài đem về, nhưng hình tượng rất kỳ quái lạ thường, nên đại chúng không thể kham nhẫn lễ bái. Ngài bảo:

- Tôn tượng này thật trang nghiêm, nhưng trên đầu lại có búi tóc không tương xứng.

Nói xong, Ngài bảo đệ tử mang tôn tượng này đến lò rèn, sửa lại búi tóc. Rèn một hồi, đột nhiên có ánh sáng toé lòa ra khắp bốn bề, khiến cho cả gian phòng sáng rực. Xem xét nhìn kỹ trong búi tóc, thấy có một viên xá lợi nằm trong đó. Ðại chúng chứng kiến tận mắt việc này, nên cùng nhau sám hối và khởi tâm cung kính. Ngài bảo đại chúng:

- Mỗi tôn tượng Phật có hình tướng khác nhau, nhưng đều vốn có đầy đủ bao điềm linh ứng. Do đó, không cần phải nhọc phiền mà sửa đổi.

Vì vậy, Ngài bảo chư đệ tử đình chỉ việc sửa búi tóc Phật. Ngài vốn đã biết trong búi tóc sẽ có hạt xá lợi, nên cố ý bảo đệ tử thui rèn búi tóc của Phật lại, hầu mong huấn thị họ. Câu truyện này được truyền mãi bao đời. Thế nên, biết rõ rằng tại chùa Ðàn Khê, ngoài tôn tượng Phật Thích Ca ra, còn có nhiều tôn tượng Phật khác, và cũng có hạt xá lợi.

Tương Dương không những là con đường mạch nối giao thông giữa Hoa Bắc và Hoa Trung, mà còn là nơi quan trọng về chiến lược. Các danh sĩ đương thời thường hội tụ về đó. Vì vậy, chư đệ tử của Ngài tại nơi đó rất đông. Tính ra, Ngài trú tại Tương Dương khoảng mười lăm năm. Nơi đó, Ngài giảng kinh Phóng Quang Bát Nhã rất nhiều lần. Bộ kinh này do đệ tử của Châu Sĩ Hành là Phất Như Ðàn từ nước Vu Ðiền mang về Lạc Dương, rồi được sa môn Vô Xoa La và Trúc Thúc Lan dịch. Ngài cũng chú thích và lược giải quyển kinh Quang Tán Bát Nhã do sa môn Trúc Pháp Hộ dịch.

Một vị hào tộc tên là Tập Tạc Sĩ ở tại Tương Dương, có khả năng biện tài vô ngại, danh vang lừng vào đương thời. Ông cũng đã từng nghe về danh đức của Ngài. Biết Ngài đã đến Tương Dương, ông bèn đến bái kiến. Vừa ngồi xuống, ông bèn tự xưng là 'Tứ Hải Tập Tạc Sĩ', có nghĩa là biện tài của ông, bốn bể không ai đối địch nổi. Ngài bèn đối đáp 'Di Thiên Thích Ðạo An', có nghĩa là khắp thiên hạ, chỉ có một Ðạo An. Bút tích văn phong của Ngài và ông ta tương xứng. Người đương thời xưng tán là cặp danh sĩ và tăng sĩ đối xứng. Tập Tạc Sĩ vừa đến chùa lại gặp nhằm ngày hội trai, nên mang đến hơn mười quả lê. Ngài lấy những quả lê đó, cắt nhỏ ra, rồi chia cho đại chúng dùng. Ðối với học vấn và đạo hạnh của Ngài, cùng giáo đoàn phụng trì giới luật theo quy củ, ông rất kính phục, tán thán không ngừng, nên gọi Ngài là 'Ðạo sĩ phi thường'. Trong bức thư gởi đến tể tướng Kiện Khang, ông viết:" Nơi đây có pháp sư Ðạo An, là một Phật giáo đồ kiệt xuất phi thường. Ngài lãnh đạo hằng trăm đồ chúng, cử ban giảng kinh, hoặc hành hội tế trai. Chăm chỉ mà hành, chứ không dùng lực thần thông hay pháp thuật để làm mê hoặc khủng bố tai mắt người khác. Ngài cũng chưa từng duơng oai hay dùng thế lực để trị những kẻ nhỏ, mà các đồ chúng đều nhất tề hỗ tương tôn trọng, và luôn luôn tôn thủ giới luật quy củ trong sự sinh hoạt tu học. Tôi chưa từng thấy giáo đoàn nào như thế! Vị pháp sư Ðạo An này, thông đạt kinh thư nội ngoại, lại tinh thuần toán số âm dương; nơi diệu lý Phật giáo, ung dung tự tại; về phương diện pháp nghĩa cùng đồng với ngài Pháp Lan, Pháp Ðạo, v.v... Thật tiếc cho Tể Tướng chưa hội ngộ được vị pháp sư này."

Hiền danh cao đức của Ngài vang lừng khắp nơi, khiến Ðông Tấn Hiếu Võ Ðế cũng hạ chiếu thư xưng tán:" Pháp sư Ðạo An nhân đức siêu quần thù thắng, có công giáo hóa đạo tục, không những hiện thời cứu tế quần sanh mà cũng làm gương sáng cho hậu thế."

Hiếu Võ Ðế lại cung phụng, cúng dường rất nhiều phẩm vật, và đối xử Ngài như các bậc vương công. Không những Ðông Tấn Hiếu Võ Ðế ở phương nam tôn sùng Ngài, mà Tiền Tần Phù Kiên ở phương bắc cũng từng bảo:

- Tương Dương có Thích Ðạo An, được gọi là thần khí. Ta muốn triệu hồi Pháp Sư về đây để giúp việc trị nước. Sau này Phù Kiên phái quân đánh chiếm Tương Dương, bắt được ngài Ðạo An và Châu Tự. Phù Kiên bảo tướng bộc xạ Quyền Dực:

- Trẫm dùng một trăm ngàn đại quân để đánh chiếm Tương Dương, mà chỉ được một nửa người!

Quyền Dực hỏi:

- Ðó là ai?

- Pháp sư Ðạo An là một người, và Tập Tạc Sĩ là nửa người.

Do đó, thấy rõ vua chúa và quần chúng đương thời kính trọng Ngài đến bậc nào!

Phù Kiên bèn thỉnh mời Ngài đến trụ trì chùa Ngũ Trọng ở Trường An. Lúc rời Tương Dương, Ngài bảo các đệ tử như Huệ Viễn, v.v... hãy vào miền Giang Nam, còn một mình đi đến Trường An. Tuy bảo rằng phân tán đồ chúng, nhưng khi Ngài đến Trường An, hàng ngàn tăng đồ kéo đến chùa Ngũ Trọng để học đạo dưới tòa của Ngài. Do đó, công nghiệp hoằng dương Phật pháp của Ngài lan rộng khắp nơi. Nhờ đức hạnh thâm cao mà Ngài mới làm việc Phật sự rộng lớn như thế.

Phù Kiên vừa lập quốc, trong nước vẫn còn loạn lạc, nhưng dần dần bốn phương đều được bình định. Vùng biên cương phía đông tới tận Thương Hải, phía tây giáp nước Quy Từ, phía nam bao hàm Tương Dương, phía bắc đến Hàn Hán, chỉ còn lại Kiến Nghiệp (kinh đô của Ðông Tấn) là chưa thần phục. Mỗi lần đàm luận với triều thần, Phù Kiên đều nói rõ ý đồ thống nhất vùng Giang Tả. Em của Phù Kiên là Phù Dung cùng các triều thần như Thạch Việt, Nguyên Thiệu, v.v... đều thống thiết khuyên rằng chớ có vọng động khởi binh, mà không thể khiến Phù Kiên thay đổi tâm ý. Thế nên, họ đến cầu Ngài khuyên nhủ Phù Kiên:

- Chúa Thượng muốn dụng binh qua Ðông Tấn. Sao Ngài (Ðạo An) không vì quần sanh mà khuyến nhủ!

Ngài lập tức đến khuyên lơn nhưng Phù Kiên vẫn không nghe.

Lần nọ, Phù Kiên đi ra ngoài vườn Ðông Uyển, thỉnh Ngài đồng lên xa giá với ông ta. Quan bộc xạ Quyền Dực thưa:

- Thần nghe rằng khi Thiên Tử xa giá, chỉ quan hầu mới được đi theo. Ngài Ðạo An xuống tóc xuất gia, sao lại cùng Thiên Tử đồng lên xa giá?

Phù Kiên nổi giận bảo:

- Ðạo đức của pháp sư Ðạo An thật khả kính tôn sùng. Cả thiên hạ cùng Trẫm cũng chưa bằng Pháp Sư, huống hồ gì việc lên xa giá có tương xứng gì với đạo đức của Pháp Sư!

Do đó, Phù Kiên sai Quyền Dực thỉnh Ngài lên xa giá.

Khi nghe danh của ngài Cưu Ma La Thập ở Tây Vức, Ngài ân cần khuyên Phù Kiên hãy mau cầu thỉnh vị thánh tăng đó qua Trung Thổ để phiên dịch kinh điển. Ngược lại, ngài Cưu Ma La Thập cũng đã từng nghe qua thanh danh oai đức của ngài Ðạo An, nên thường nói rằng ngài Ðạo An chính là bậc thánh nhân ỏ đông phương. Hai mươi năm, sau khi ngài Ðạo An nhập tịch, thì ngài Cưu Ma La Thập mới sang Trung Thổ.

Ngài chẳng những tinh thông thơ văn, mà còn thông đạt nội ngoại điển tích, âm dương toán số, cùng những học vấn khác. Vì vậy, giai cấp quý tộc tại Trường An cũng từng thân cận Ngài để học hỏi, và thường bảo:

- Không học với ngài Ðạo An thì nghĩa khó mà thông đạt!

Bốn năm tại Trường An, Ngài giảng kinh Phóng Quang Bát Nhã hai lần trong mỗi năm. Tháng tám năm 382, Ngài đến Nghiệp Ðô, làm lễ húy kỵ cho thầy bổn sư, tức là ngài Phật Ðồ Trừng. Tại chùa Nghiệp Ðô, Ngài cung thỉnh pháp sư Cưu Ma La Phật Ðề tuyên đọc kinh Tứ A Hàm bằng tiếng Phạn, rồi thỉnh ngài Trúc Phật Niệm và Trúc Phật Hộ phiên dịch. Ngài lại thỉnh hai ngài Trúc Phật Niệm và Trúc Phật Hộ phiên dịch kinh Tỳ Nại Da, rồi tự viết lời tựa cho bản kinh đó. Năm 383, ngài Tăng Già Bạt Trừng dịch quyển luận Bình Bà Sa, luận A Tỳ Ðàm Bát Kiền Ðộ, cùng kinh Bà Tu Mật Tập; ngài Ðàm Ma Nan Ðề dịch kinh Tăng Nhất A Hàm; ngài Ðạo An viết bài tựa cho các quyển kinh luận đó. A Tỳ Ðàm Bát Kiền Ðộ là bộ luận hoàn chỉnh nhất của tạng luận tiểu thừa. Thế nên, đối với tam tạng kinh điển, Ngài thông suốt hết ba tạng kinh, luật, luận.

Phật giáo Trung Quốc tôn sùng tôn giả Tân Ðầu Lô (hay Tần Ðầu Lô Phả La Ðọa - Pindola -, nghĩa là Bất Ðộng, và là một trong mười sáu vị A La Hán, không nhập Niết bàn mà vĩnh viễn trụ thế. Tôn Giả thường hiển hiện tại các cuộc trai đàn để chứng minh và ủng hộ pháp hội) khởi đầu từ ngài Ðạo An. Do vì ngài Ðạo An chú thích rất nhiều kinh điển, nên mỗi lần chú giải quyển kinh nào, đều cầu nguyện Tam Bảo gia hộ. Song, vì trọng trách chú giải kinh điển thật nặng nề, và sợ rằng không hợp với ý của Phật, nên Ngài phát nguyện:

- Nếu những lời chú thích của con không tương phản với ý chỉ của Phật đà, thì xin hãy hiển hiện điềm lành để ấn chứng.

Ðêm nọ, Ngài mộng thấy một vị Phạm tăng, tóc trắng lông mi dài, bảo:

- Những lời chú thích kinh điển của ông, đều hợp với ý của Phật. Ta vốn là hòa thượng không nhập Niết Bàn ở Tây Vực. Ta sẽ hỗ trợ cho ông trong việc hoằng dương Phật pháp. Ông hãy vì Ta mà chuẩn bị cúng dường.

Do đó, ngài Ðạo An thiết lễ trai tăng cúng dường tôn giả Tân Ðầu Lô.

Hai mươi năm sau khi ngài Ðạo An nhập tịch, ngài Phất Nhã Ða La và ngài Cưu Ma La Thập phiên dịch quyển Thập Tụng Luật. Lúc đó, đệ tử của Ngài là Huệ Viễn mới biết vị tăng mà thầy bổn sư của mình mộng thấy khi xưa, chính là tôn giả Tân Ðầu Lô. Từ đó, mới có thông lệ cúng dường phẩm vật cho tôn giả Tân Ðầu Lô.

Sau này, Tần Phù Kiên chẳng chịu nghe lời khuyên nhủ của Ngài, nên phái Bình Dương Công Phù Dung thống lãnh hai trăm năm mươi ngàn quân tiền phong, còn ông ta tự thân dẫn sáu trăm ngàn quân đi nam chinh. Vua Tấn phái Chinh Lỗ tướng quân Tạ Thạch, thái sử Tạ Huyền ở Từ Châu dẫn quân ra chống cự. Kết quả, quân của Phù Kiên đại bại, tại núi Bát Công. Sử gọi là trận chiến Phì Thủy. Quân Ðông Tấn truy đuổi chém giết quân Phù Kiên la liệt. Phù Dung cũng bị tử thương. Cuối cùng, một mình Phù Kiên cỡi ngựa chạy về Trường An, rồi lại bị Mộ Dung Sung giết chết, khiến nhà Tiền Tấn bị diệt vong. Do không chịu nghe lời khuyên nhủ của Ngài về việc nam chinh nên Phù Kiên mới bị mất nước vong thân.

Ðương thời, tại chùa Ngài cùng chư đệ tử như Pháp Ngộ, v.v... quỳ trước tượng Phật Di Lặc, đòng phát nguyện vãng sanh lên cõi trời Ðâu Suất. Vào ngày hai mươi bảy tháng giêng năm 384, niên hiệu Kiến Nguyên thứ hai mươi mốt, đột nhiên có một dị tăng hình tướng xấu xa dơ bẩn, đến chùa xin ngủ qua đêm. Vì trong chùa không còn dư phòng, nên sắp đặt cho vị tăng đó nghỉ ngơi tại giảng đường. Ðêm hôm đó, thầy Duy Na thấy vị dị tăng kia bay ngang qua lại cửa sổ, nên kinh hoàng vội đến báo cho Ngài hay tin. Lập tức, Ngài ra giảng đường lễ bái cùng thỉnh vấn mục đích đến chùa của vị dị tăng kia. Dị tăng đáp:

- Vì muốn độ Thầy nên mới tới đây!

Ngài thưa:

- Tội chướng của con nặng nề, thì làm sao được độ thoát?

- Ðương nhiên là Ta độ được! Song, phải mộc dục (tắm gội) tượng thánh tăng, thì mới có thể được như nguyện!

Nói xong, dị tăng bèn chỉ Ngài cách thức mộc dục. Ngài tiếp thọ và lại hỏi nơi trú của vị dị tăng. Dị tăng bèn lấy tay chỉ lên trời, về hướng tây bắc, rồi đột nhiên mây mù nơi đó tan mất, và thắng cảnh trang nghiêm vi diệu của cung trời Ðâu Suất hoàn toàn hiện ra trước mắt. Ðến khuya, vài mươi người trong chùa cũng đồng thấy thắng cảnh cung trời Ðâu Suất rõ ràng. Ngài y theo lời dạy, chuẩn bị đầy đủ pháp cụ để làm lễ mộc dục. Lúc đó, chợt có vài mươi chú tiểu đồng dị thường, chạy vào chùa nô đùa, rồi trong phút chốc, tự làm lễ mộc dục. Ðó chính là điềm linh ứng của Phật Di Lặc.

Vào mồng tám tháng hai năm 385, không có bịnh chi, Ngài lại bảo đồ chúng:

- Ta phải đi đây!

Nói xong, Ngài bèn thị tịch. Linh cữu được chôn tại chùa Ngũ Cấp ở Trường An.

Trước khi Ngài thị tịch, có ẩn sĩ Vương Gia thường qua lại vấn an. Ngài bảo Vương Gia:

- Thế sự loạn ly như vầy. Tai họa thường giáng xuống thân! Hãy cùng Ta rời khỏi thế gian này!

Vương Gia đáp:

- Thật đúng như lời của Ngài. Song, con còn chút nợ chưa trả xong. Xin Ngài hãy đi trước.

Ðương thời, Dao Trường dẫn quân đến công phá Trường An. Quân của Dao Trường và Phù Ðăng tranh hùng với nhau mà chưa phân thắng bại. Bấy giờ, Dao Trường cho vời Vương Gia đến hỏi:

- Ta có chiếm được ngai vàng không?

Vương Gia nói:

- Lược đắc được.

Nghe lời này Dao Trường nổi giận lôi đình, bảo:

- Ðược thì nói là được. Sao lại bảo rằng lược đắc được?

Nói xong, Dao Trường bèn chém đầu Vương Gia. Ðó là món nợ mà Vương Gia phải trả. Dao Trường vừa chết, con là Dao Hưng đánh bại Phù Ðăng, và lên ngôi hoàng đế. Tên tự của vua Dao Hưng là 'Lược'. Ðó là ý nghĩa mà Vương Gia bảo rằng lược đắc lên ngôi.

Ðệ tử của Ngài là Ðàm Giới. Trong quyển 'Cao Tăng Truyện' thứ năm có ghi rằng, vào lúc tuổi già bịnh hoạn, thường trì tụng danh hiệu Phật Di Lặc. Ðệ tử của ngài Ðàm Giới là Trí Chánh hỏi:

- Sao Sư Phụ không phát nguyện vãng sanh qua cõi Tây Phương Cực Lạc?

Ngài Ðàm Giới bảo:

- Xưa kia, Ta đã từng cùng với Hòa Thượng (ngài Ðạo An) và tám huynh đệ khác phát nguyện vãng sanh lên cung trời Ðâu Suất. Hòa thượng Ðạo An và các sư huynh đệ của Ta đã vãng sanh rồi, chỉ còn Ta ở lại nơi đây. Hiện tại, chính là lúc Ta phải gấp rút cầu vãng sanh lên cung trời Ðâu Suất.

Nói vừa dứt lời, thì một luồng hào quang chiếu khắp toàn thân, nên khiến dung mạo của ngài Ðàm Giới an hòa tươi tỉnh, rồi an tường nhập tịch. Mộ của ngài Ðàm Giới cũng được xây ngay bên phải của phần mộ ngài Ðạo An.

Ngoài ra, pháp hữu khi xưa của Ngài là Trúc Pháp Phụ, tại chùa Thượng Minh ở Kinh Châu, cũng thường lễ sám phát nguyện vãng sanh lên cõi trời Ðâu Suất, cầu mong ngưỡng kiến đức Từ Thị.

Ðối với giới luật, ngài Ðạo An từng bảo:

- Giới luật là nền tảng căn bản cho sự đắc đạo. Trong tam tạng kinh điển, giới luật chiếm địa vị trọng yếu nhất.

Vào đời Tam Quốc, thời Tào Ngụy, ngài Ðàm Ma Ca La dịch bộ Tăng Kỳ Luật, và cùng với ngài Ðàm Ðế dịch Tứ Phần Luật. Kế đến, hai ngài thiết pháp Yết Ma, thật hành truyền giới. Ðến đời của ngài Ðạo An vẫn chưa hoàn chỉnh. Lúc trú tại Nghiệp Ðô, ngài Ðạo An tận lực học giới luật, nhưng vì chiến loạn mà nguyện chưa thành. Khi tới Tương Dương rồi qua Trường An, ngài Ðạo An gặp được sa môn Ðàm Ma Thị, vị chuyên chú về giới học, nên rất vui mừng. Thế nên, Ngài cầu thỉnh sa môn Ðàm Ma Thị truyền đọc 'Thập Tụng Ðại Tỳ Kheo Giới Bổn', và thỉnh sa môn Trúc Phật Niệm cùng Trúc Ðạo Hiền phiên dịch. Lại nữa, khi sa môn Tăng Thống từ nước Câu Di mang quyển 'Thập Tụng Tỳ Kheo Ny Giới Bổn' trở về thì ngài Ðạo An cũng thỉnh hai sa môn Trúc Phật Niệm và Trúc Ðạo Hiền dịch quyển đó. Theo quyển 'Cao Tăng Truyện' thì ngài Ðạo An viết những điều luật cho tăng ni tu hành như sau:" Chế độ quy thức của tăng ni, tức nghi thức tu hành, có ba điều lệ: Thứ nhất là pháp hành hương tọa, thượng kinh thượng giảng. Thứ hai là pháp sáu thời hành đạo ẩm thực xướng thời. Thứ ba là hành các pháp Bố Tát, sai sử, hối quá, v.v... Các chùa chiền tịnh xá trong thiên hạ, phải chấp hành theo phương thức này."

Nội dung của lời này không được rõ ràng, nên quyển 'Tăng Sử Lược Giản Thuật' vào đời Tống giải thích như sau:" Thứ nhất là hành hương, định tọa thượng giảng kinh. Thứ hai là phải sám hối trong sáu thời. Thứ ba là hành các pháp Bố Tát."

Ðối với pháp hành hương, có hai loại: Thứ nhất, hành hương cũng là một việc bố thí, tức dâng hương cúng Phật, để biểu lộ lòng chân thành triệt để; người ngồi nơi vị trí cao (bậc thượng tọa), phải ân cần hành pháp này; tại pháp hội, nghiêm túc hành việc này. Thứ hai, hành hương đơn thuần là chỉ việc dâng hương. Kế đến, 'định thượng tọa' nghĩa là tăng lạp ít thì ngồi tu thiền định, mà tăng lạp cao thì lên tòa giảng kinh. Ðăng đàn giảng kinh là nghi thức của Phật giáo phát khởi từ ngài Ðạo An. Trước khi lên đàn giảng kinh phải dâng hương cúng Phật. 'Kinh Thượng Giảng' nghĩa là phải giảng từ câu cú. Khi giảng kinh, phải hoạch định phân rõ ba phần: Phần tựa, phần chánh tông, và phần lưu thông. Nhất nhất phải y theo thứ tự mà trần thuật giảng giải. Lại nữa, tại đàn tràng giảng kinh phải thiết đặt tôn tượng Phật, và treo tràng phan bảo cái.

Thứ hai, sáu thời lễ sám, tức là trong sáu thời (sáng, trưa, chiều, tối, chập tối, giữa khuya, đêm khuya) phải đi hành thiền và lễ bái chư Phật. Phải đi từ bên phải mà kinh hành nhiễu Phật. Ðây là lễ nghi của người Thiên Trúc. Ngoài ra, ngài Ðạo An còn tự viết văn lễ sám trong sáu thời cho chư tăng ni tu hành.

Về phương diện ăn uống, mỗi ngày chỉ dùng một buổi vào giờ ngọ. 'Xướng Thời Pháp' tức là tùy thời mà xưng niệm danh hiệu Phật.

Thứ ba, hành Bố Tát, tức là chư tăng vào mỗi nửa tháng vân tập tại giới đường, thi hành nghi thức sám hối trước khi tụng giới. Nếu có vị tăng nào phạm giới, phải ra trước tăng chúng mà cáo bạch, cầu xin sám hối. Chư tăng tùy theo giới kinh trọng mà phân lường xử đoán. Kế tiếp, một vị tăng bước lên tòa tuyên đọc giới pháp, còn những vị khác phải tụ lắng nghe. Ðây là pháp của đức Thế Tôn truyền dạy. Tại Trung Thổ, do ngài Ðạo An phát khởi, pháp Bố Tát mới thực sự được thi hành, và ảnh hưởng lớn lao đến tăng đoàn Phật giáo sau này.

Trước đời ngài Ðạo An, các sa môn người Tàu thường được vị thầy thế độ ban cho pháp danh, nên hỗn tạp vô chừng mực. Ngài chủ trương rằng vị bổn sư của chư Phật tử là Phật Thích Ca, nên chư sa môn phải lấy danh tánh họ Thích. Ngài nói:

- Vị thầy bổn sư, không ai tôn quý bằng dòng họ Thích Ca.

Mới đầu, không ai màng đến lời này của Ngài. Sau này, khi kinh Tăng Nhất A Hàm vừa được dịch ra tiếng Tàu thì mọi người mới biết rõ rằng Phật dạy:

- Các sông ngòi chảy vào biển cả, thì không còn danh tự của sông ngòi. Do đó, tuy tên tục khác nhau, nhưng các sa môn đều phải xưng là 'Thích' chủng.

Ðiều này thấy rõ lời của Ngài hợp với kinh điển, nên kể từ đó, chư tăng đều lấy họ Thích làm đầu.

Chia tay với ngài Ðạo An tại Tân Dã, thầy Trúc Pháp Thái đến Dương Châu, trụ trì chùa Ngõa Quan tại thành Kiến Nghiệp, rồi được các vua Ðông Tấn cung kính tôn trọng, và tụ hội hơn một ngàn đồ chúng, nên công nghiệp hoằng pháp phát triển rộng rãi.

Thầy Trúc Pháp Hòa chia tay với ngài Ðạo An tại Tân Dã xong, bèn qua đất Thục, rồi trở lại Trường An cùng với ngài Ðạo An tích cực hiệu đính những quyển kinh luật đã được phiên dịch.

Ngài Ðạo An sanh nhằm thời chiến tranh loạn lạc khắp nơi. Không những thức ăn hiếm hoi, mà ngay cả sinh mạng luôn bị đe dọa. Sống trong thời loạn ly ấy, tuy đã bao lần chạy lánh nạn đó đây, nhưng ngài Ðạo An vẫn quyết chí tu hành không gián đoạn, và tận tâm tận lực hoằng dương Phật pháp, đào tạo các vị cao tăng như ngài Huệ Viễn, Ðàm Dực, v.v..., cùng giáo hóa tín đồ, xây dựng chùa chiền như chùa tháp ở Hằng Sơn, bảy gian thiền đường ở phía đông chùa Thượng Minh, chùa Ðàn Khê ở Tương Dương với năm mươi tự viện. Bên cạnh những sự nghiệp này, ngài Ðạo An còn chuyên cần chú giải kinh điển, khiến cho người nghiên cứu nắm rõ nghĩa lý chân chánh của kinh điển. Ngài lại y cứ theo giới luật mà lập ra nền tảng tu trì căn bản cho tăng đoàn.

Trước thời ngài Ðạo An, Phật giáo Trung Quốc còn non nớt, chỉ nằm trong thời sơ kỳ. Công cuộc phiên dịch kinh điển được ngài An Thế Cao và Chi Lâu Ca Sấm phát khởi, rồi liên tiếp có nhiều nhà dịch giả khác tham gia. Song, đối với những người có tâm nghiên cứu tu học, khi đọc những quyển kinh điển được phiên dịch vào buổi sơ thời, thì đa phần khó lãnh hội ý chỉ, còn nói chi đạt được nghĩa lý thâm sâu. Thế nên, quyển 'Xuất Tam Tạng Ký Tập' ghi lại lời của ngài Ðạo An như sau:" Kinh điển được dịch đã lâu, mà văn kinh xưa và đôi khi sai lạc, khiến cho nghĩa lý thâm sâu bị mai một ẩn mất, cùng thông bế tắt. Mỗi lần giảng kinh, chỉ bàn về ý nghĩa một cách đại khái mà thôi."

Y cứ theo lời này, thời kỳ ban đầu của Phật giáo Trung Quốc, về phương diện phiên dịch kinh điển, gần như đã thành thục. Song, các bản dịch cổ xưa thường có nhiều chỗ sai lầm, nên khiến nghĩa lý thâm sâu bị mất đi, và ý nghĩa cũng chưa được thông suốt rõ ràng. Do đó, người diễn thuyết kinh điển được phiên dịch cổ xưa, thường giảng giải đại ý hoặc tụng đọc lại thôi. Thế nên, nghĩa lý của kinh điển, không được hiểu rõ chính xác.

Ðể hiểu rõ chân nghĩa của kinh điển, Châu Sĩ Hành phải qua tận nước Vu Ðiền cần cầu bản văn kinh Phóng Quang Bát Nhã bằng tiếng Phạn. Song, bản dịch về bộ kinh này cũng chưa lột trần được nghĩa lý thâm sâu, nên lúc diễn giảng, ngài Ðạo An chỉ thuyết về đại ý mà thôi. Vì vậy, đối với các học giả Phật giáo, ngài Ðạo An rất thông cảm cho nỗi khó khăn này, nên lập chí nghiên cứu nghĩa lý chân thật, rồi đề xướng những yếu điểm thâm sâu vi diệu của kinh điển, bằng cách chú thích. Theo quyển 'Xuất Tam Tạng Thống Ký', ngài Ðạo An chú thích và lược giải những bộ kinh như sau: Quang Tán Bát Nhã sao giải (1 quyển), Quang Tán Bát Nhã chiết trung giải (1 Quyển), Phóng Quang Bát Nhã chiết nghi chuẩn (1 quyển), Phóng Quang Bát Nhã chiết nghi lược (2 quyển), Phóng Quang Bát Nhã khởi tận giải (1 quyển), Ðạo Hạnh Kinh tập dị chú (1 quyển), Ðại Thập Nhị Môn chú (2 quyển), Tiểu Thập Nhị Môn chú (1 quyển), Liễu Bổn Sanh Tử Kinh chú (1 quyển), Mật Tích Kim Cang Kinh chân giải (1 quyển), Trì Tâm Phạm Thiên Kinh chân giải (1 quyển), Hiền Kiếp Bá Vạn Tứ Thiên Ðộ Vô Cực kinh giải (1 quyển), Nhân Bổn Dục Sanh Kinh chú toát giải (1 quyển), An Ban Thủ Ý Kinh giải (1 quyển), Âm Trì Nhập Kinh chú (2 quyển), Ðại Ðạo Ðịa Kinh chú (1 quyển), Thập Pháp Cú nghĩa (1 quyển), Nghĩa Chỉ chú (1 quyển), A Tỳ Ðàm Cửu Thập Bá Kết Kinh giải (1 quyển), Tam Thập Nhị Tướng giải (1 quyển).

Ngài Ðạo An trước tác những quyển như sau: Tam Giới Chư Thiên Hỗn Nhiên Hào Tạp Lục (1 quyển), Tổng Lý Chúng Kinh Mục Lục (1 quyển), Ðáp Sa Thái Nạn (1 quyển), Ðáp Pháp Tương Nạn (2 quyển), Tây Vực Chí (1 quyển).

Thật sự, trong sử Phật giáo Trung Quốc, ngài Ðạo An được xưng tán là vị Sơ Tổ chú giải kinh điển. Thế nên, trong quyển 'Xuất Tam Tạng Ký Tập' viết:" Làm sáng nghĩa kinh điển cổ xưa, khởi đầu từ ngài Ðạo An."

Không những chú giải kinh điển, ngài Ðạo An còn trước tác, soạn viết rất nhiều bài tựa, để thuật lại kinh điển được dịch qua quá trình như thế nào, kinh điển này từ đâu có, tiêu đề của kinh điển là gì, v.v... Mỗi mỗi kinh luật luận, ngài Ðạo An đều tự phát biểu kiến giải của mình. Những phần tựa của Ngài, được viết lại trong quyển 'Xuất Tam Tạng Ký Tập' như sau: An Ban chú tự, Âm Trì Nhập Kinh tự, Nhân Bổn Dục Sanh Kinh tự, Liễu Bổn Sanh Tử Kinh tự, Thập Nhị Môn Kinh tự, Ðại Thập Nhị Môn Kinh tự, Ðạo Hạnh Kinh tự, Hợp Phóng Quang Quang Tán lược giải, Ma Ha Bát La Nhã Ba La Mật Kinh sao tự, Tăng Nhất A Hàm Kinh tự, Ðạo Ðịa Kinh tự, Thập Pháp Cú Nghĩa Kinh tự, A Tỳ Ðàm tự, Bính Bà Sa tự, Tỳ Kheo Ðại Giới tự.

Quyển 'Xuất Tam Tạng Ký Tập' viết:" Ðầu tiên ngài Ðạo An ghi chép lại kinh điển, vì muốn tuyên dương giáo pháp. Ngài Ðạo An lại thỉnh chư sa môn ngoại quốc như Tăng Già Bạt Trừng, Ðàm Ma Nan Ðề, Tăng Già Ðề Bà, v.v... phiên dịch rất nhiều kinh điển, rồi cùng với sư đệ Trúc Pháp Hòa chọn định văn tự, xem xét tinh tường về chỉ thú của lời kinh. Các kinh điển vừa được dịch, đều được hiệu đính, nhuận sắc như thế."

Ðiều này cho thấy rằng, ngài Ðạo An thường thỉnh chư tăng ngoại quốc phiên dịch kinh điển và cùng với sư đệ là Trúc Pháp Hòa hiệu đính, nhuận sắc lại lời văn, để xác định ý nghĩa chân thật của kinh điển.

Có ba việc khó khi phiên dịch: Thứ nhất, lúc Phật còn tại thế, Ngài ứng theo ý hướng căn tánh của quần chúng mà thuyết pháp. Phong tục của thời đại tùy theo thời gian mà chuyển biến thay đổi. Vì vậy, trau chuốt lại lời văn cổ xưa để hợp với lời văn hiện tại thật là khó. Thứ hai, phàm phu khó suy lường cảnh giới của chư thánh hiền. Thánh giáo của Phật thuyết ra đã trải qua ngàn năm và trăm đời, nên dịch cho hợp ý với đức Phật và khiến phàm phu đời mạt pháp được dễ hiểu lời của Phật thì thật là khó. Thứ ba, cuộc kết tập kinh điển lần thứ nhất ngay sau khi Phật nhập Niết Bàn do tôn giả Ðại Ca Diếp triệu tập năm trăm vị đại A La Hán, và tôn giả A Nan cùng tôn giả Ưu Ba Ly trùng tuyên lại kinh luật của Phật dạy, đã qua ngàn năm. Thế nên, hiện đời thật khó mà kiểm thảo lại văn kinh thay đổi, thêm bớt.

Do đó, theo lập trường của ngài Ðạo An thì khi phiên dịch kinh điển, phải giữ nguyên ý chỉ của văn kinh tiếng Phạn.

Ngoài ra, ngài Ðạo An còn có công trong việc soạn viết mục lục cho các kinh điển đã được phiên dịch, khiến cho học giả dễ dàng tra cứu về người dịch, niên đại, v.v..., như quyển Tổng Lý Chúng Kinh Mục Lục. Thầy Huệ Kiểu sau này y theo đó mà viết thêm. Thầy viết:" Từ đời Hán, Ngụy đến Ðông Tấn, kinh điển được dịch không ít, mà tên của người dịch, niên đại, danh tự của kinh không được kể rõ, khiến cho người sau, khó lòng mà tra cứu. Vì vậy, ngài Ðạo An gom góp lại hết danh mục, viết niên biểu, người dịch, thời đại, chương phẩm, mới cũ, soạn thành kinh lục. Kinh điển từ đó có nơi y cứ, thật do công của ngài Ðạo An. Các học sĩ ở bốn phương đều đua nhau tìm đến học hỏi nơi ngài Ðạo An."

Theo lời này, trải qua các triều đại, sa môn và cư sĩ từ Tây Vực qua nước Tàu, tùy tiện thuận tay mà phiên dịch, nên các bản dịch lắm khi tạp loạn. Không những đôi khi bản dịch chưa đủ thể tiết, mà người dịch và thời đại đều không được ghi lại rõ ràng. Thế nên, ngài Ðạo An kiểm thảo lại những kinh điển mới được phiên dịch, viết rõ danh tánh dịch giả, thời đại, nơi chốn, và phán xét phân biệt kinh điển chân chánh hay tà ngụy, tức hoàn thành công tác biên tập mục lục.

Song, quyển 'Tổng Lý Chúng Kinh Mục Lục' đã bị thất lạc, không thể tìm được. Hiện nay trong quyển 'Xuất Tam Tạng Ký Tập' của thầy Tăng Hữu, từ quyển hai đến quyển năm có viết lược lại nội dung và thể tiết của quyển 'Tổng Lý Chúng Kinh Mục Lục'. Do đó, mục lục của các kinh điển cổ xưa hiện vẫn còn nằm trong quyển 'Xuất Tam Tạng Ký Tập' của thầy Tăng Hữu. Giả như không có quyển 'Tổng Lý Chúng Kinh Mục Lục' của ngài Ðạo An, thì e rằng thầy Tăng Hữu khó lòng mà soạn ra quyển 'Xuất Tam Tạng Ký Tập' đó.

Ngoài ra, ngài Ðạo An còn viết quyển 'Tịnh Ðộ Luận', nhưng tiếc rằng đến nay đã bị thất lạc. Tuy chưa từng qua Tây Vực, nhưng nhờ tài trí bác học, ngài Ðạo An ghi lại địa lý, sản vật, dân tình, hiện tình Phật giáo tại Tây Vực, do các sa môn cư sĩ Tây Vực khẩu truyền lại, mà viết thành quyển ký lục 'Tây Vực Chí', rất là chính xác.

I. Ngài Huệ Viễn, sơ tổ tông Tịnh Ðộ.

Ðại đệ tử của ngài Ðạo An đương nhiên là Huệ Viễn. Ngài Huệ Viễn vốn là đệ tử thượng thủ, và là cánh tay phải đắc lực nhất của ngài Ðạo An. Khi loạn lạc ở Tương Dương phát khởi, ngài Huệ Viễn cùng vài mươi đệ tử đến núi Lô Sơn tu hành. Nhờ chuyên tâm nỗ lực, ngài Huệ Viễn thành công trong việc nghiên cứu và tu học ba môn giới định huệ. Về những phương diện thiết lập nền tảng căn bản khiến chư Phật tử phát khởi tín tâm mà tu hành, đa phần đều nhờ công lao của ngài Huệ Viễn, điển hình là việc sáng lập tông Tịnh Ðộ, niệm Phật cầu vãng sanh qua cõi Tây Phương Cực Lạc.

Năm 401, ngài Cưu Ma La Thập vào Trường An, phiên dịch kinh điển và truyền bá tư tưởng Không Quán Bát Nhã của ngài Long Thọ và Ðề Bà.

Ðương thời, tại Lô Sơn, ngài Huệ Viễn, nghiêm trì giới luật, tu hành thiền định, lại âm thầm bồi dưỡng các bậc danh tăng tài đức. Ngài tiếp thừa pháp thiền quán và lý Bác Nhã do ngài Ðạo An sáng lập.

Ngài sanh năm 334, vốn là người Lâu Phiền ở Nhạn Môn, tục tánh họ Cổ, xuất từ dòng dõi sĩ phu. Khi Ngài xuất sanh, chính nhằm vào lúc ngài Phật Ðồ Trừng đang được Thạch Lặc và Thạch Hổ của Hậu Triệu tôn sùng, cùng làm cố vấn cho họ. Sau này, Ngài theo Ðạo An, đệ tử của ngài Phật Ðồ Trừng, mà học đạo. Bấy giờ, Thạch Hổ đã cho phép người Tàu xuất gia chính thức. Ðương thời, tuy dưới mắt người Tàu, Thạch Hổ là một kẻ quân vương vô đạo, nhưng ông lại rất trọng văn chương, nên tại Nghiệp Ðô sáng lập ngũ kinh bác học, mà mạnh nhất là nho giáo.

Thời niên thiếu, Ngài không những thừa thọ sự giáo hóa của Nho giáo, mà còn chịu ảnh hưởng sâu sắc về tư tưởng Phật giáo. Tuy tuổi nhỏ, nhưng Ngài mệt mài học tập không ngừng; thiên tánh của Ngài thật vượt phàm nhân. Năm mười ba tuổi, Ngài theo người cậu là Linh Cô đến Hứa Xương, Lạc Dương cầu học. Thế nên, Ngài được học lục kinh cổ điển cùng tư tưởng Lão Trang. Thâm ý của người cậu là muốn Ngài theo đuổi quan trường, làm rạng rỡ tông môn. Từ năm mười ba tuổi đến năm hai mươi mốt tuổi là thời kỳ mà Ngài chuyên học cổ điển thư tịch. Phong thái và kiến thức của Ngài thật cao tột, và là bậc nho gia anh tài, khiến người người thường khâm phục.

Trước năm 350, ngài Phật Ðồ Trừng đã viên tịch, và Tăng Lãng đã vào núi Thái Sơn. Thạch Hổ vừa mất, Trung Thổ rối loạn tơi bời, giặc giã nổi lên như châu chấu, khiến dân chúng lầm than đói khát, thậm chí ăn thịt lẫn nhau. Thế nên, đa số các danh sĩ cùng các sa môn thường di cư về miền Giang Nam. Năm hai mươi mốt tuổi, Ngài cũng quyết định xuôi vào Giang Nam, theo Phạm Tuyên Tử, học phép thuật ẩn độn. Song, thế cuộc lúc bấy giờ đang hỗn loạn, khiến đường vào nam bị cắt đứt, nên Ngài không thể thực hiện được ý nguyện. Trên đường, nghe thanh danh của ngài Ðạo An đang tuyên dương Phật pháp tại núi Thái Hành, nên Ngài lại đổi ý, đến đó tham vấn tu học. Bấy giờ, đi cùng với Ngài là người em Huệ Trì. Vừa mới gặp mặt ngài Ðạo An thì Ngài liền khởi tâm cung kính, hoan hỷ nói:

- Ðây chính là thầy của Ta!

Lúc nghe ngài Ðạo An giảng kinh Bát Nhã, ngài Huệ Viễn bèn chợt khai ngộ, nên bảo:

- Học thuyết của Nho giáo, Ðạo giáo, và bách gia đều là tấm cám!

Vì vậy, Ngài quyết định ném phứt tất cả sở học Lão Trang, Nho Giáo mà xuống tóc xuất gia cùng với bào đệ là Huệ Trì, và theo ngài Ðạo An tu học Phật pháp. Từ đó, ngài Huệ Viễn luôn luôn theo hầu cận ngài Ðạo An suốt hai mươi lăm năm trường. Xuất gia xong, Ngài chuyên cần tinh tấn tu hành, tinh tường nghiên cứu và tụng đọc kinh điển, khiến trở nên thông thái, tổng nhiếp đại pháp, và tự nhận lấy trọng trách hoằng dương chánh pháp. Ðối với một người tinh thông tư tưởng Lão Trang cùng các cổ kinh điển tích nhu ngài Huệ Viễn, mà xả tục xuất gia, thì thật phải có tâm dõng mãnh mới làm được.

Xưa kia, được người chú cung cấp tiền tài, Ngài mới được học hành an ổn. Trở thành tăng sĩ, không được ai chu cấp nên nghèo cùng túng quẩn, đến độ không có tiền để mua vải may y ca sa, hay y phục mặc vào mùa đông giá lạnh. Song, đối với sự tu hành, huynh đệ ngài Huệ Viễn không bao giờ biếng nhác. Ðồng đạo là Ðàm Dực, biết được việc này, bèn trợ giúp cho họ tiền tài. Biết Huệ Viễn vốn là phi phàm, tương lai sẽ trở thành bậc long tượng, và biết việc Ðàm Dực hỗ trợ tiền tài, nên ngài Ðạo An khen ngợi:

- Ðàm Dực thật là người biết rõ kẻ khác!

Ðàm Dực xuất gia vào năm mười sáu tuổi, và sau này theo ngài Ðạo An đến chùa Ðàn Khê, rồi lại tới trùng hưng chùa Trường Sa ở Giang Lăng.

Tinh thần của ngài Huệ Viễn cao viễn cùng trí huệ thâm sâu, ý chí hằng cầu đại đạo, khác với phàm nhân. Vì vậy ngài Ðạo An tán thán:

- Ðạo pháp được lưu truyền nơi Ðông Ðộ, chính là nhờ nơi Huệ Viễn này đây!

Thật đúng như lời nhận định này, đối với lịch sử Phật giáo Trung Quốc, ngài Huệ Viễn để lại một sự nghiệp vĩ đại, khiến nền móng căn bản mà ngài Ðạo An đã định đặt, được khai triển rộng rãi.

Nhờ nghe ngài Ðạo An giảng kinh Bát Nhã, mà ngài Huệ Viễn mới quyết chí ném bỏ học thức Lão Trang để xuất gia tu học Phật pháp. Trong lá thư đáp lời ẩn sĩ Lưu Di Dân, Ngài viết rằng hồi tưởng lại lúc xưa hướng tâm về học thuật thế tục của nho giáo, lầm nhận là chân lý tối cao trên thế gian, nhưng sau khi xem qua tư tưởng Lão Trang, thì mới biết nho giáo bất quá chỉ là nghị luận hư vọng biến chuyển theo thế tình. Lại nữa, khi vừa nghiên cứu Phật pháp, thì tự phán xét rằng giáo lý của Phật pháp lại càng u huyền thâm sâu triệt để hơn tư tưởng của Lão Trang vô cùng cực.

Lần nọ, vào năm hai mươi bốn tuổi, Ngài đăng đàn giảng kinh Bát Nhã. Một người nọ, vì chưa hiểu rõ nghĩa của 'Thật tướng', nên đến vấn hỏi. Ngài dẫn dụng văn cú của Lão Trang để thuyết minh về những điểm thiết yếu, cùng giải thích những điều nghi vấn, khiến người kia được lãnh hội yếu chỉ. Từ đó, ngài Ðạo An đặc biệt cho phép Ngài dẫn dụng những câu cú cổ điển để diễn giảng Phật pháp. Các sư huynh đệ như Pháp Ngộ, Ðàm Huy, v.v... cũng tham dự buổi giảng kinh đó, rất là thán phục Ngài.

Pháp Ngộ, đệ tử của ngài Ðạo An, 'ngộ giải phi thường', năng lực cao tuyệt. Năm 377, tại chùa Trường Sa ở Giang Lăng, Pháp Ngộ giáo hóa hơn bốn trăm đồ chúng.

Ðàm Huy xuất gia vào năm mười sáu tuổi. Tuy chưa trưởng thành mà đã từng đăng đàn giảng kinh. Sau này, Ðàm Huy là người đệ tử kiệt xuất của ngài Ðạo An tại chùa Thượng Minh ở Kinh Châu. Những vị đệ tử kiệt xuất của ngài Ðạo An như Pháp Ngộ và Ðàm Huy, v.v... thường rất kính phục tài năng của ngài Huệ Viễn. Ðiều này hiển thị tài năng xuất chúng của ngài Huệ Viễn cao tột đến bậc nào.

Lúc trú tại núi Hằng Sơn, vì loạn Nhiễm Mẫn (340), xã hội bất an, nên ngài Ðạo An phải đến Vương-ốc ở núi Nữ Ngột. Nơi đó, trú ẩn chẳng bao lâu, lại vượt sông Hoàng Hà đến Lục Hồn. Gặp thiên tai hỏa nạn, thiếu thốn thức ăn, cùng lúc Mộ Dung Tuấn đang vây hãm Lục Hồn, nên ngài Ðạo An phải chuyển hướng đến Tân Dã. Nơi đó cũng bất an, nên ngài Ðạo An bảo sư đệ là Trúc Pháp Thái hãy qua Dương Châu, và Trúc Pháp Hòa hãy vào đất Thục, rồi tự dẫn đồ đệ đến Tương Dương. Ðương thời, ngài Ðạo An được năm mươi bốn tuổi, còn ngài Huệ Viễn được ba mươi hai tuổi. Trong hai mươi lăm năm trường, Huệ Viễn luôn theo sát ngài Ðạo An để tu học kinh Bát Nhã, kinh An Ban Thủ Ý, kinh Âm Trì Nhập, v.v... để làm nền tảng tu hành cùng tu tập thiền quán tiểu thừa. Ðối với ngài Ðạo An, kinh Bát Nhã của đại thừa cùng thiền quán tiểu thừa, đều là giáo pháp của Phật Thích Ca truyền lại, chẳng có chút mâu thuẫn. Giáo lý thì căn cứ trên kinh điển đại thừa. Về phương diện thực tiễn, dùng kinh điển tiểu thừa làm quy thức.

Thời gian trú tại Tương Dương, kiến giải của Huệ Viễn cũng tương đồng với ngài Ðạo An.

Năm 378, Tần Vương Phù Kiên sai quân đánh chiếm Tương Dương, Thái sử Lương Châu là Châu Tự phòng vệ cẩn mật, nhưng qua năm sau Tương Dương thất thủ. Châu Tự bị giải về Trường An. Vì tâm cung kính, nên Phù Kiên cũng cho vời ngài Ðạo An đến Trường An. Do đó, giáo đoàn của ngài Ðạo An bắt buộc phải bị phân tán. Trong lúc chia tay, ngài Ðạo An ân cần khuyến nhủ tất cả đệ tử lâu năm, nhưng chẳng hề nói lời gì đến ngài Huệ Viễn. Vì vậy, ngài Huệ Viễn quỳ xuống, thưa:

- Chỉ có một mình con là chưa được Thầy dạy bảo. Tại sao con lại khác với các sư huynh đệ kia?

Ngài Ðạo An cười đáp:

- Người tài trí như con, thì Thầy còn gì để lo lắng cho nữa? Vì vậy Thầy chẳng cần dặn dò điều chi.

Từ đó, đối với ngài Huệ Viễn, ngài Ðạo An không còn dạy dỗ điều gì. Sau đó, ngài Huệ Viễn và Huệ Trì, cùng với vài mươi người đệ tử, đồng đến trú tại chùa Thượng Minh ở Kinh Châu. Ðương thời, đệ tử của ngài Ðạo An là Tăng Phụ đang giữ chức trụ trì chùa Thượng Minh. Ngôi chùa này, đối với chư đệ tử của ngài Ðạo An, thật là một tự viện phát khởi pháp duyên thù thắng. Nơi đó, Ðàm Dực được thái thú Trường Sa là Thắng Hàm cúng dường chùa Trường Sa.

Trú tại chùa Thượng Minh ở Kinh Châu chẳng bao lâu, ngài Huệ Viễn bèn qua núi La Phù. Trước kia, núi La Phù là nơi mà ngài Ðạo An chỉ định cho ngài Huệ Viễn cùng sư huynh đệ là Huệ Vĩnh đồng cư trú tu hành. Trên đường xuôi vào nam, tại Tầm Dương ở Giang Tây, thấy núi Lô Sơn tịch tĩnh phi phàm; thật là thắng cảnh tu hành tuyệt vời, có thể giúp an tâm tịnh lự. Do đó, ngài Huệ Viễn chọn tịnh xá Long Tuyền làm nơi cư trú và tu hành. Vì ngôi tịnh xá cách xa nguồn suối, nên thiếu nước. Ngài Huệ Viễn bèn ra ngoài chống cây tích trượng trên đất, bảo:

- Nếu Ta có duyên với ngọn núi này, thì nơi đây hãy vụt ra dòng suối.

Nói vừa dứt lời, từ dưới đất đột nhiên vụt ra dòng suối trong. Chẳng bao lâu, vùng Tầm Dương bị nạn hạn hán. Ngài Huệ Viễn bèn ra gần bờ ao, tụng kinh Hải Long Vương. Ðang lúc tụng kinh, đột nhiên một con thuồng luồng từ giữa hồ bay thẳng lên hư không, rồi mưa xuống tràn trề, khiến dân chúng thu hoạch trúng mùa. Từ đó, tịnh xá Long Tuyền được đổi tên thành chùa Long Tuyền.

Khi ấy, thấy tịnh xá chật hẹp, nên đồng môn là Huệ Vĩnh, thỉnh mời ngài Huệ Viễn sang cùng chung trú ở tại chùa Tâm Lâm. Quan thứ sử Hoàn Y cũng nói:

- Ngài Huệ Viễn vào nam vốn là hoằng dương chánh pháp. Tăng chúng theo Ngài, ngày càng đông đảo. Tuy tôi muốn cúng dường, nhưng khổ nổi, tịnh xá kia lại quá chật hẹp.

Do đó, ông kiến lập thêm một ngôi chùa bên phía đông của núi Lô Sơn, mà sử gọi là chùa Ðông Lâm, để làm nơi cư trú cho ngài Huệ Viễn.

Lần nọ, được sa môn người Thiên Trúc miêu tả tượng Phật độ rồng độc, ngài Huệ Viễn bèn ra đằng sau lưng núi, kế bên dòng suối, chọn một địa điểm để xây một am thất, tức Phật Ảnh Ðường (ảnh hưởng lối kiến trúc xây ngôi chánh điện theo kiểu nước Thiên Trúc hay Tây Vực), rồi theo lời diễn tả mà tưởng tượng, vẽ ra một bức tượng Phật. Nhìn xa xa, giống như tượng Phật có lúc ẩn có lúc hiện trong mây khói.

Lần nọ, một ngư dân bẩm tấu với thứ sử Quảng Châu là Ðào Khản rằng thường thấy trên mặt biển có một ánh sáng thần dị phóng quang liên tiếp cả mười ngày. Ðào Khản nghe thế bèn đích thân đến nơi đó mà xem xét. Ông ta nhìn thấy tượng Phật do vua A Dục tạo đang nổi trên mặt biển và tỏa ánh hào quang. Vì vậy, ông cung thỉnh về chùa Hàn Khê ở Võ Xương. Ngày nọ, thầy Tăng Trân, vị trụ trì của chùa Hàn Khê, rời chùa đến Hạ Khẩu. Ban đêm, Thầy mơ thấy chùa Hàn Khê bị cháy rụi, mà chỉ có gian thất thờ tượng Phật, nhờ long thần vây nhiễu hộ trì, mà vẫn còn nguyên vẹn. Tỉnh dậy, thầy Tăng Trân vội trở về chùa, thì thấy nơi nơi đều bị cháy rụi, mà chỉ còn gian thất thờ tượng Phật là y nguyên. Sau này, Ðào Khản qua Giang Châu nhận chức thứ sử, nên ông ta sai người đến thỉnh về. Tượng Phật vừa được đặt lên thì thuyền bèn bị chìm. Ðào Khản từ lúc trẻ đã nổi danh là một võ tướng tài ba. Song, vì thiếu tâm tín thành, và chỉ thỉnh tượng bằng uy lực, nên không được như ý nguyện. Sau này, con của Ðào Khản là Ðào Phạm, nghe ngài Huệ Viễn sáng lập chùa Ðông Lâm, bèn nhất tâm phụng thỉnh tượng Phật đến chùa đó mà phụng thờ. Trước kia, tượng Phật nặng nề khiến thuyền phải chìm, mà nay nhờ lòng chân thành, tượng Phật lại nhẹ bẵng, nên được thỉnh về chùa. Câu chuyện này hiển thị lực thần thông và đức hạnh thâm cao của ngài Huệ Viễn.

Tại chùa Ðông Lâm, ngài Huệ Viễn cũng lập ra một thiền đường, để cùng các hành giả tu thiền quán cùng nhau tọa thiền.

Năm 385, ngài Ðạo An nhập tịch tại Trường An. Năm 386, ngài Huệ Viễn xây xong chùa Ðông Lâm. Năm 383, sa môn Tăng Già Ðề Bà đến Trường An, phiên dịch quyển A Tỳ Bát Kiền Ðộ Luận. Sau khi Hậu Tần Phù Kiên diệt vong, sa môn Tăng Già Ðề Bà cùng với Pháp Hòa đến Lạc Dương. Kiểm thảo những bản dịch xưa thấy có nhiều chỗ sai lầm, nên Pháp Hòa thỉnh sa môn Tăng Già Ðề Bà hiệu đính lại. Ðến đời Dao Hưng, Pháp Hòa trở về Trường An.

Trước đời ngài Ðạo An, đã có các dịch giả phiên dịch ra những bộ luận của phái Nhất Thiết Hữu Bộ, nhưng chưa hoàn bị. Vì đã từng sưu tập kinh tạng, nên ngài Huệ Viễn luôn muốn cầu thỉnh sa môn ngoại quốc dịch lại những bộ kinh luận đó. Nghe tin sa môn Tăng Già Ðề Bà đã đến Lạc Dương ngài Huệ Viễn bèn thỉnh mời về Lô Sơn vào năm 391. Nơi đó, sa môn Tăng Già Ðề Bà dịch luận A Tỳ Ðàm của ngài Pháp Thắng và quyển Tam Pháp Ðộ Kinh của ngài Thế Hiền. Hai bộ luận này thuộc về phái Nhất Thiết Hữu Bộ. Song, kinh văn của sa môn Tăng Già Ðề Bà thật đơn sơ, chưa được trau chuốt, chỉ chuyên ròng giữ nguyên ý. Vì đã từng học tập luận A Tỳ Ðàm của tiểu thừa dưới tòa của ngài Ðạo An, ngài Huệ Viễn xem hai quyển kinh luận này như bảo vật, mà gia công nhuận sắc trau chuốt lời văn.

Ngài Huệ Viễn tuy thích tu thiền quán, nhưng pháp thiền ở vùng Giang Nam rất hiếm hoi, nên phái đệ tử là Pháp Tịnh, Pháp Lãnh sang Tây Vực cầu kinh điển về thiền pháp. Sau này, thiền pháp được truyền sang Trung Thổ, do sa môn Phật Ðà Bạt Ðà La (đệ tử của sa môn đại thiền sư Phật Ðại Tiên) mang qua.

Trí Nghiêm vốn là người Tàu. Thầy sang nước Kế Tân, theo học thiền quán với sa môn Phật Ðại Tiên ba năm, và tu đạo chứng quả trong mười năm. Thiền định của Trí Nghiêm được đại thiền sư Phật Ðại Tiên thường tán thán. Người nước Kế Tân, thấy lòng chân thành cầu pháp của Trí Nghiêm cũng rất khen ngợi. Ðương thời, sa môn Phật Ðại Tiên là vị tu trì rất nhiều kinh điển về thiền quán. Do lòng thành cầu khẩn của Trí Nghiêm, ngài Phật Ðà Bạt Ðà La đồng ý sang đông độ để truyền pháp thiền.

Ðối với kinh điển thiền quán tiểu thừa, vào đời Hán có ngài An Thế Cao dịch kinh Thập Nhị Môn, An Ban Thủ Ý. Song, đối với kinh điển thiền quán của đại thừa vẫn chưa hoàn được phiên dịch hết. Sau này, do Tăng Duệ thỉnh cầu, ngài Cưu Ma La Thập dịch quyển Tọa Thiền Tam Muội. Quyển kinh này có bốn mươi ba bài kệ, do ngài Cưu Ma La Ðà tạo. Hai mươi bài kệ cuối cùng do ngài Mã Minh tạo. Ðối với bộ kinh thiền chánh thống này, ngài Huệ Viễn gia công thực tập tu hành.

Sau này, tại Trung Thổ, kinh điển thiền quán mà sa môn Phật Ðại Tiên thường hành trì, được sa môn Phật Ðà Bạt Ðà La phiên dịch. Vượt biển từ nước Kế Tân đến Thanh Châu ở Sơn Ðông bán đảo, Phật Ðà Bạt Ðà La lại qua Trường An. Song, đệ tử của ngài Cưu Ma La Thập là Ðạo Hằng dâng biểu lên triều đình, bảo rằng ngôn hạnh của Phật Ðà Bạt Ðà La thô thiển, chỉ mê hoặc chúng dân, đi ngược lại giới luật của Phật, v.v..., nên không thể ở lại Trường An. Nghe những lời này, Phật Ðà Bạt Ðà La bảo rằng thân mình nhỏ như loài bọt bèo, nhưng đến đi tự do. Song, vì nguyện chưa hoàn thành, nên cảm thấy nuối tiếc. Sau này, Phật Ðà Bạt Ðà La cùng với Huệ Quán và hơn bốn mươi người khác đến Lô Sơn vào năm 411. Ðối với sự bài bác của Ðạo Hằng tại Trường An, lỗi nơi môn đệ chứ chẳng phải lỗi ở Phật Ðà Bạt Ðà La. Ðã lâu nghe qua thanh danh của Phật Ðà Bạt Ðà La, lại nghe tin vị sa môn này đến núi Lô Sơn, nên ngài Huệ Viễn rất hoan hỷ ra tiếp đón. Kế đến, ngài Huệ Viễn viết thơ nhờ đệ tử là Ðàm Ung đưa cho vua Dao Hưng cùng tăng chúng tại Trường An, để giải oan cho Phật Ðà Bạt Ðà La. Ngoài ra, Huệ Viễn còn thỉnh Phật Ðà Bạt Ðà La dịch kinh Tu Hành Phương Tiện Thiền.

Thiền kinh do Phật Ðà Bạt Ðà La phiên dịch làm nền tảng căn bản cho sự hưng thịnh của thiền pháp tại vùng Giang Nam. Xưa kia, những thiền kinh do ngài An Thế Cao và Trúc Pháp Hộ dịch, được Tăng Tiên và Ðàm Du khởi xướng tu hành thực tập. Lúc Trí Nghiêm qua Tây Vực cầu pháp, Thầy thỉnh mời được Phật Ðà Bạt Ðà La qua đến Trung Thổ. Từ đó đất Trung Thổ có được kinh điển về thiền pháp mới được dịch, rồi do Huyền Cao và Huyền Thiệu tương tục kế thừa tu hành.

Tại Giang Nam, do ngài Huệ Viễn tu hành thiền pháp thành thục, nên pháp thiền cũng được hưng thịnh. Các thiền kinh do Phật Ðà Bạt Ðà La phiên dịch, ảnh hưởng rất lớn đến sự tu hành thiền quán của ngài Huệ Viễn. Lại nữa, Bát Nhã Ðài và Phật Ảnh Quật được xây dựng trước lúc thành lập chùa Ðông Lâm, đều do ảnh hưởng tư tưởng của Phật Ðà Bạt Ðà La.

Theo truyền thuyết, tại núi Nam Sơn ở nước Na Gia Ha La (Nagarahara) có bóng ảnh của Phật đà. Tin này do sa môn Phật Ðà Bạt Ðà La và Tăng Già Ðề Bà khẩu truyền, cùng ngài Pháp Hiển viết lại sau chuyến hành hương sang Thiên Trúc. Tin tưởng vào lời của những vị này, ngài Huệ Viễn thể hội thâm sâu rằng sự cảm ứng giữa Phật và chúng sanh vượt ngoài không gian và thời gian. Ngài xác tín rằng nếu vẽ được bóng ảnh Phật đà thì sẽ khiến cho người xem khởi tâm quán tưởng tượng Phật tức thấy được Phật mà sanh tâm chánh tín. Do đó, Ngài quyết tâm kiến tạo Phật Ảnh Quật (hang có bóng hình của Phật đà).

Sáng lập Niệm Phật Xã (cũng được gọi là Bạch Liên Xã vì ở hai bên phía đông và tây gần Bát Nhã Ðài có hai hồ sen trắng, nên mới có danh hiệu đó. Ðồng thời, hoa sen cũng tượng trưng cho thân tâm của người tu hành; khi đạt được giải thoát tức là vượt khỏi bùn nhơ phiền não;) ngài Huệ Viễn được hậu thế tôn sùng là sơ tổ tông Tịnh Ðộ. Vào tháng bảy năm 402, ngài Huệ Viễn và một trăm hai mươi ba người như Lưu Di Dân, Trương Dã, Ðiều Tích Chi, v.v... (đa số là cư sĩ tại gia), đồng hội tụ trước tượng Phật A Di Ðà tại tịnh xá Bát Nhã Ðài, phát nguyện tu niệm Phật tam muội (y theo kinh Ban Chu Tam Muội) để cầu vãng sanh qua cõi Tây Phương Cực Lạc. Tín chúng vân tập tại nơi đó, tin tưởng rằng báo ứng thiện ác thông suốt cả ba đời, và khó mà dẹp trừ được. Vì vậy, ngày đêm họ chuyên cần tu tịnh nghiệp, nhất tâm niệm danh hiệu Phật A Di Ðà, để cầu được vãng sanh. Ðầu tiên, mỗi người đều tự tu hành riêng. Sau này, ngài Huệ Viễn nhóm tụ tất cả mọi người trong Niệm Phật Xã, mà đồng chuyên tu niệm Phật với nhau để sớm có hiệu quả. Ngài Huệ Viễn cũng viết bài Pháp Xã Tiết Ðộ Tự (hiện nay không còn) để quy định pháp thức tu hành niệm Phật cho tăng chúng và cư sĩ.

Trong bài 'Niệm Phật Tam Muội Thi Tập Tự', ngài Huệ Viễn viết rằng gọi là tam muội vì tư tưởng và tình lự đều tập trung chuyên nhất, khiến dẹp trừ được hết tất cả vọng tưởng. Tư tưởng chuyên nhất thì ý chí không phân tán, nên vọng tưởng được tiêu trừ, và hơi thở cũng nhẹ nhàng, tinh thần cũng lắng đọng, khiến tự thấy rõ hết mọi việc. Công đức niệm Phật tam muội thật vô lượng, mà hành trì lại dễ dàng. Niệm Phật tam muội lại rất thích hợp với bi nguyện ứng hóa cứu độ chúng sanh của chư Phật. Niệm Phật rời tâm phân biệt tức nhập vào tam muội. Nếu nhập vào niệm Phật tam muội và thấy được Phật, thì phiền não tự tiêu trừ, và các hoặc nghiệp thâm sâu cũng bị cắt đứt. So sánh niệm Phật tam muội với những tam muội khác thì pháp này thù thắng hơn hết. Chủ trương của ngài Huệ Viễn là niệm Phật phải thấy được Phật trong định tam muội.

Trong quyển 'Ðại Thừa Ðại Nghĩa Chương' có ghi lại các lời đàm luận và vấn đáp về niệm Phật tam muội giữa ngài Cưu Ma La Thập và Huệ Viễn. Thật ra, pháp niệm Phật tam muội của ngài Huệ Viễn, y cứ theo chương Niệm Phật trong quyển kinh Ban Chu Tam Muội. Hạnh Phẩm trong kinh Ban Chu Tam Muội bàn về niệm Phật tam muội. Trong đó, nói rõ niệm Phật tam muội giống như trong mộng thấy Phật, và thỉnh vấn nơi Phật, khiến trừ khử bao nghi hoặc. Nghĩa là Phật hiện trong định do đạt được niệm Phật tam muội, tương đồng với trong mộng thấy Phật. Tất cả đều xuất phát từ tâm tưởng mà ra. Kinh Ban Chu Tam Muội thuyết rằng nếu y theo giới mà tu trì không hủy phạm, thì nhờ năng lực của hành giả và thần thông oai lực của chư Phật, sẽ đắc được định.

Ðối với việc thấy được chư Phật khi chứng được niệm Phật tam muội, ngài Cưu Ma La Thập bảo rằng có ba trường hợp: Thứ nhất, chư Bồ Tát đã đắc được thiên nhãn và thiên nhĩ thông, cùng có thể đi khắp mười phương, thỉnh cầu chư Phật thuyết pháp mà đoạn trừ nghi vấn. Thứ hai, người chưa có năng lực thần thông, nhưng nhờ thường niệm Phật A Di Ðà mà tâm chuyên chú một nơi, thì sẽ thấy được Phật và dẹp trừ nghi hoặc. Thứ ba, tu tập niệm Phật, dầu đã ly dục hay chưa ly dục, mà tự thân thấy được tượng Phật vào đời quá khứ, hiện tại, vị lai ở trong mộng. Ðó là ba loại định, và đều gọi là niệm Phật tam muội.

Ban Chu Tam Muội là phương pháp tu hành rất hiệu nghiệm cho chư Bồ Tát chưa ly dục. Ðây là pháp tu hành căn bản, khiến chuyên chú niệm Phật, đắc được tam muội, mà thấy được Phật. Kinh Ban Chu Tam Muội thuyết rằng người tu niệm Phật tam muội, quyết rời ngôn ngữ, chỉ chuyên tâm nhất ý, thường nhớ niệm Phật A Di Ðà tại cõi Tây Phương, phóng ánh hào quang sáng soi khắp cả mười phương. Trong kinh thường nói rằng thân của chư Phật, đều do các duyên mà sanh, chẳng có tự tánh, rốt ráo tịch tĩnh, như huyễn như hóa. Hiểu được như thế thì niệm Phật mà đắc được tam muội tức sẽ thấy Phật, thật không hư dối.

Ðương thời, vì kinh Vô Lượng Thọ chưa được dịch, nên ngài Huệ Viễn chỉ y cứ vào kinh Ban Chu Tam Muội do ngài Chi Lâu Ca Sấm dịch, mà tu hành niệm Phật tam muội.

Năm 402, ngài Huệ Viễn sáng lập Niệm Phật Kết Xã, khiến thu hút rất nhiều ẩn sĩ. Ðương thời, các quốc gia Hồ tộc tại vùng Hoa Bắc cứ tiếp nối nhau mà hưng vong. Triều Ðông Tấn tại Giang Nam cũng bị suy vi cùng tột: Tôn Ân phản loạn; Hoàn Huyền mưu phản. Ðó là điềm diệt vong của một triều đại. Những người chán chường thế cuộc tao loạn, ẩn cư trong chốn rừng núi ngày một đông. Ngoài ra, vào thời Ðông Tấn mới thành lập, phong trào thanh đàm chí hướng ẩn dật rất thạnh hành, mà tại Hội Kê ở Giang Nam, người khởi xướng là Chi Ðộn. Cuối đời Ðông Tấn, do Tôn Ân phản loạn, nên khiến xã hội rối loạn bất an. Vì vậy, Lô Sơn, ngọn núi nằm trong lưu vực sông Trường Giang, là nơi các ẩn sĩ thường để tâm đến. Không những có phong cảnh tịch tĩnh u huyền, mà Lô Sơn lại là nơi không khuất phục quyền thế của triều đình, cùng có ngài Huệ Viễn thường cư trú. Hoàn Huyền tuy ra lịnh chỉnh lý các tăng đoàn Phật giáo, nhưng không dám chạm tới Lô Sơn. Vì thế, người có chí sống ẩn dật thường đua nhau đến Lô Sơn tu hành dưới tòa của ngài Huệ Viễn.

Lưu Di Dân vốn là quan huyện. Mến mộ thanh danh oai đức của ngài Huệ Viễn nên sau khi người mẹ qua đời, ông ta bèn lên núi Lô Sơn tu đạo. Ông là người đã cùng với các pháp hữu khác phát nguyện niệm Phật cầu vãng sanh. Nửa năm sau, nhờ luôn chuyên cần niệm Phật, Lưu Di Dân đắc được niệm Phật tam muội, nên lúc đi trên đường, thấy Phật hiện tướng trên hư không, phóng ánh hào quang sáng, chiếu soi suốt trời đất. Ông lại thấy chính thân mình tỏa ánh sáng màu vàng, và được y ca sa đắp, cùng tắm trong ao sen báu.

Về sau, Lưu Di Dân có viết quyển Bạch Liên Xã Thệ Văn. Trong đó, Lưu Di Dân bảo rằng nếu thường quán tưởng và niệm Phật thì rất dễ dàng được oai thần lực, tam muội lực, công đức bổn nguyện lực của Phật gia trì, khiến mau chóng thành tựu đạo nghiệp.

Sau này, ngài Huệ Viễn cùng vua Hoàn Huyền đàm luận về việc chỉnh lý tăng đoàn Phật giáo cùng việc sa môn không cần cung kính quốc vương. Nhờ có Ngài mà tăng đoàn tại Lô Sơn giữ giới rất nghiêm túc, cùng công hạnh thực tiễn tu trì niệm Phật, ngày một vững chắc. Ngoài ra, với sáu mươi tám tuổi đời, thấy sanh mạng vô thường, nên ngài Huệ Viễn chuyển việc nghiên cứu lý Bát Nhã sang sự niệm Phật tam muội, để mong được vãng sanh vào lúc lâm chung. Do đó, vì mến mộ hạnh tu niệm Phật của ngài Huệ Viễn, nên rất nhiều người kéo nhau đến Lô Sơn.

Người đương thời, thường xưng tán mười tám vị hiền giả tại Lô Sơn như: Ngài Huệ Viễn, tôn giả Phật Ðà Bạt Ðà La, tôn giả Phật Ðà Da Xá, Ðạo Sanh, Huệ Vĩnh, Huệ Trì, Tăng Duệ, Ðàm Thuận, Ðàm Hằng, Ðạo Bính, Ðạo Kính, Ðàm Thân, Lưu Di Dân, Lôi Thứ Tông, Chu Tích Chi, Nam Dương Tông Bỉnh, Nam Dương Trương Dã, Nam Dương Trương Thuyên.

Ngài Huệ Viễn cùng ngài Cưu Ma La Thập vấn đáp lẫn nhau, mà hậu thế viết thành 'Ðại Thừa Ðại Nghĩa Chương', hay vấn đáp về yếu nghĩa đại thừa giữa hai ngài Huệ Viễn và Cưu Ma La Thập.

1/ Vấn đáp về pháp thân chân thật

Ngài Huệ Viễn hỏi: Kinh thuyết rằng pháp thân là không đến không đi, bất sanh bất diệt, cùng niết bàn tương đồng, mà pháp thân Bồ Tát có thể thấy. Nếu như thế thì sao pháp thân khác với sắc thân?

Ngài Cưu Ma La Thập đáp: Pháp thân của Phật tức do pháp tánh mà sanh. Sắc thân là thân biến hóa của Phật, khác biệt với pháp thân. Thật tướng của pháp thân đồng với niết bàn, là không làm và không tạo tác.

Nghe qua lời này, ngài Huệ Viễn xác nhận: a/ Thật tướng của pháp thân là không đến không đi, và đồng với niết bàn tịch tĩnh. b/ Pháp thân không phải là thân tứ đại, ngũ căn, như ánh trăng soi đáy nước, như gương chiếu bóng hình. c/ Pháp thân tức Phật tánh, hằng thường bất biến.

2/ Ngài Huệ Viễn lại vấn hỏi về pháp thân chân thật.

Ngài Cưu Ma La Thập đáp: Tiểu thừa dùng ba mươi bảy phẩm trợ đạo, thập lực, mười tám bất cộng pháp, cùng các công đức vô lậu của đức Phật mà cho rằng đấy chính là pháp thân. Pháp thân của đại thừa là không sanh không diệt, tuyệt đường ngôn ngữ, đồng tướng niết bàn tịch tĩnh, công đức vô lậu, v.v... Hai loại kiết sử (phiền não), hai loại chướng ngại, và tất cả pháp hữu vi, đều là hư vọng không thật. Pháp thân của Bồ Tát, tuy bảo rằng có bốn đại và năm căn, nhưng không đồng với sắc thân biến hóa, và chẳng có sanh tử, cùng biến hiện khắp nơi.

3/ Vấn đáp về loại pháp thân chân thật.

Ngài Huệ Viễn hỏi: Rất nhiều kinh điển thuyết rằng Phật có đủ thân tướng, sáng soi rực rỡ, đoan chánh không gì sánh bằng. Vậy thì pháp thân chân thật có giống như thế chăng?

Ngài Cưu Ma La Thập đáp: Kinh Mật Tích thuyết rằng thân của Phật không có cố định, tự do tự tại, ứng theo cơ duyên của chúng sanh mà biến hiện; nghĩa là mỗi chúng sanh đều thấy hình sắc của Phật có khác nhau.

4/ Vấn đáp về thọ lượng của pháp thân chân thật.

Huệ Viễn hỏi: Thọ mạng của chúng sanh phàm phu đều do nghiệp lực chủ định. Pháp thân của Bồ Tát y cứ vào đâu mà chủ định?

Ngài Cưu Ma La Thập đáp: Pháp thân có hai loại. Thứ nhất, pháp tánh thường trụ bất biến, giống như hư không, và lìa tất cả hý luận hữu vi và vô vi. Thứ hai, lúc Bồ Tát chưa thành Phật, nhưng đắc được lục thông, mà gọi đó là pháp thân. Dẫu có Phật hay không có Phật ra đời, pháp tánh vẫn thường trụ bất hoại.

5/ Vấn đáp về sự tu hành để đạt ba mươi hai tướng tốt.

Huệ Viễn hỏi: Người muốn đạt được ba mươi hai tướng, là dùng thân thể phiền não và nghiệp lực mà tu, hay dùng pháp thân mà tu? Nếu dùng thân thể phiền não đầy nghiệp lực mà tu, thì thân vốn đã đầy phiền não cùng nghiệp lực, sao có thể tu ba mươi hai tướng tốt được? Nếu dùng pháp thân mà tu, thì pháp thân chẳng đủ khẩu nghiệp, sao tu hành được? Mục đích tu hành là phải thành Phật. Vậy thì Phật là pháp thân chân thật hay thân biến hóa?

Ngài Cưu Ma La Thập đáp: Tuy có thể dùng giả thuyết mà gọi pháp thân, nhưng không thể tìm cầu trên sắc tướng. Tâm nhãn có thanh tịnh mới thấy được Phật. Ngay cả Bồ Tát thập địa cũng chưa thấy được pháp thân chân thật. Chỉ có chư Phật đầy đủ Phật nhãn mới thấy được thôi.

Ở Trung Thổ vào đương thời, vẫn chưa có thuyết niết bàn thường trụ, chỉ thảo luận thọ mạng dài ngắn mà thôi. Về lý này, ngài Huệ Viễn nói:

- Phật vốn vĩ đại tối cực, nên không biến chuyển. Vì không biến chuyển, thì sao sanh mạng còn dài ngắn?

Do đó, Ngài trước tác quyển 'Pháp Tánh Luận'. Vua Dao Tần rất khâm phục oai phong đạo đức tài trí của Ngài, nên thường viết thơ thỉnh vấn, cúng dường không ngừng, cùng sai Dao Sùng đem tặng tượng Phật bằng châu ngọc. Quyển Ðại Trí Ðộ Luận vừa phiên dịch xong, vua Dao Tần đặc biệt phái người đem quyển luận này đến núi Lô Sơn, thỉnh Ngài viết lời tựa. Thấy lời văn của quyển luận này rất dài dòng, ý nghĩa thâm sâu, không tiện lợi cho người sơ học nghiên cứu học tập, nên Ngài viết thêm mục tiết, lược viết về yếu nghĩa, thành hai mươi quyển, lại cũng viết bài tựa, để chỉ rõ tông chỉ, khiến học giả bớt chút ít phiền toái.

Lúc chinh phạt Ân Trung Kham, đại quân đi ngang qua Lô Sơn, Hoàn Huyền phái người mời Ngài xuống núi. Ngài bèn bảo vì bịnh, nên từ chối không xuống núi. Hoàn Huyền phải tự thân lên núi. Ðương thời, các quan tả hữu của Hoàn Huyền bảo:

- Trước kia, Ân Trung Kham đã từng vào núi lễ kính Huệ Viễn. Hy vọng sau khi vào núi, Ðại Vương chớ có lễ bái Huệ Viễn.

Hoàn Huyền đáp:

- Ân Trung Kham sắp chết rồi, sao lại so sánh với Ta!

Vừa lên núi, Hoàn Huyền chợt nghiêm túc cung kính lễ bái, hỏi Ngài:

- Nho giáo bảo rằng thân thể lông tóc thọ nơi cha mẹ, nên không dám làm tổn hoại. Sao Ðại Sư lại cắt bỏ râu tóc?

Ngài đáp:

- Nhà nho lập thân, nên phải bảo toàn hình tướng. Hành đạo trong nhà Phật, chỉ bảo toàn tâm tánh. Lý lập thân và hành đạo không đồng nhau.

Hoàn Huyền nghe lời này, khen ngợi không ngừng. Vừa muốn hỏi han, nhưng không mở miệng được. Chốc lát sau, Hoàn Huyền hỏi:

- Ðại Sư có lời chúc phước nào không?

Ngài nói:

- Nguyện cho Ðại Vương được an ổn, và đối thủ của Ngài cũng như thế!

Hoàn Huyền khen ngợi:

- Thật trong đời chưa từng gặp người như Ðại Sư!

Cũng cố được quyền thế xong, Hoàn Huyền muốn kéo Ngài vào để thêm vây cánh, nên viết thư dụ thuyết, khuyên Ngài hãy phò chánh mà ra làm quan. Song, Ngài viết thư từ chối. Chẳng bao lâu, thấy trong nhà Phật có những điều tệ hại, nên Hoàn Huyền hạ lịnh bắt một số tăng nhân hoàn tục, bảo:

- Trừ những vị sa môn thường hoằng dương Phật pháp, hoặc nghiêm trì giới luật, còn những người khác phải nên hoàn tục. Lô Sơn vốn là nơi cư trú của các bậc tu hành, nên không cần phải kiểm tra.

Biết Hoàn Huyền bức ép tăng chúng hoàn tục, Ngài bèn viết thơ gởi cho ông ta:" Phật giáo suy đồi, bị ô uế đã lâu. Mỗi lần nghĩ đến việc này khiến tâm tôi bứt rứt muôn phần. Tôi tự nghĩ đây chẳng phải là ý trời, mà do con người tạo thành việc trầm luân. Hiện nay thấy việc thanh trừ sa môn tạp nhạp, thật là thuận theo ý trời, chỉ cần thiết là mọi việc phải rõ ràng phân minh; người chánh trực sửa đổi được những kẻ tà ngụy xiểm khúc. Những kẻ bất nhân này sẽ tự rời khỏi nhân gian. Nếu được như thế thì mạng lịnh đào thải tăng chúng bê tha sẽ có hiệu lực. Sau đó mới uốn nắn được những kẻ tà ngụy, khiến họ không có cơ hội làm những việc cẩu thả mê muội. Những người chân thật cũng không còn bị thế tục hiềm nghi. Từ đó, đạo Phật cùng gia phong của thế tục được hưng thạnh, và ngôi Tam Bảo cũng được hưng long!"

Vì văn thể của pháp lịnh chưa được hoàn chỉnh, nên Hoàn Huyền vui mừng tiếp thọ ý kiến của Ngài.

Tấn Thành Ðế lên ngôi lúc còn nhỏ tuổi, nên Dựu Băng phụ chánh. Dựu Băng cho rằng sa môn phải lễ bái nhà vua, mà quan thượng thư Linh Hà Sung, quan bộc xạ Trử Dực, v.v... đều không đồng ý. Ðương thời, các quan sử trong triều đều tán thành ý kiến của Linh Hà Sung, Trử Dực, v.v... Ðương thời, nền chánh trị đang bị xáo trộn, nên khiến thế nhân không biết nương vào nơi đâu. Trấn thủ tại Cô Thục, Hoàn Huyền viết thơ gỏi cho Ngài, bảo rằng sa môn phải lễ kính hoàng đế:" Sa môn không cung kính bậc vương giả, thì chẳng hợp với thế tình."

Ngài Huệ Viễn viết thơ đáp:" Tại sao xưng là sa môn? Vì sa môn khai mở cho người ngu muội con đường giải thoát. Phải quên đi nhân ngã, thì sẽ cùng người trong thiên hạ đồng đắc giải thoát. Các bậc cao minh cùng người phàm phu cũng mong muốn được lợi lạc ấy. Lại nữa, y ca sa vốn không phải y phục của triều đình. Bình bát cũng không phải vật của triều nội. Sa môn là người thoát ngoài thế tục, nên không thể cung kính vương gia."

Hoàn Huyền tuy kiên trì giữ ý kiến của mình, nhưng sau khi xem qua thơ của Ngài, bèn phải lùi bước. Lên ngôi xong, Hoàn Huyền lập tức hạ lịnh:

- Phật pháp vi diệu quảng đại, chẳng phải người phàm nhân dự biết được. Hôm nay Ta đã lên ngôi hoàng đế. Vì để biểu thị sự tôn sùng Phật giáo, nên Ta ban lịnh là từ nay về sau, các sa môn không cần phải lễ kính vương giả.

Hơn ba mươi năm, thân Ngài không rời núi, và chân không vào nhà người thế tục. Mỗi lần tiễn khách, lấy Hổ Khê làm giới hạn, rồi quay trở về. Mồng sáu tháng tám năm 416, ngài Huệ Viễn cảm bịnh, không uống ăn mà thị tịch, thọ tám mươi ba tuổi. Ðạo tục xa gần đều thương tiếc.

Những trước tác của ngài Huệ Viễn như luận, tự, khắc, tán, thi, thư, có mười quyển và hơn năm mươi thiên, được ghi trong quyển 'Xuất Tam Tạng Ký Tập' như sau: Lô Sơn Tu Hành Phương Tiện Thiền Kinh Thống Tự, A Tỳ Ðàm Tâm Tự, Tam Pháp Ðộ Tự, Ðại Trí Sao Luận Tự, Pháp Luận, Vấn Như Pháp Tánh Chân Tế, Vấn Thật Pháp Hữu, Vấn Phân phá Không, Bát Nhã Kinh Vấn Luận Tự, Vấn Pháp Thân, Trùng Vấn Pháp Thân, Vấn Chân Pháp Thân Tướng Loại, Vấn Chân Pháp Thân Thọ, Vấn Pháp Thân Ứng Cảm, Vấn Pháp Thân Phi Sắc, Vấn Tu Tam Thập Nhị Tướng, Vấn Pháp Thân Phật Tận Bổn Tập, Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Tự, Vô Tam Thừa Thống Lược, Tam Pháp Ðộ Kinh Tự, Pháp Xã Tiết Ðộ Tự, Ngoại Tự Tăng Tiết Ðộ Tự, Tiết Ðộ Tự, Tỳ Kheo Ny Tiết Ðộ Tự, Sa Môn Bất Kính Vương Giả Luận, Sa Môn Ðản Phục Luận, Thiền Kinh Tự, Thích Thần Túc, Vấn Niệm Phật Tam Muội, A Tỳ Ðàm Tâm Tự, Vấn Biến Học, Trùng Vấn Biến Học, Vấn La Hán Thọ, Vấn Trụ Thọ, Thích Tam Báo Luận, Minh Báo Ứng Luận, Biện Tâm Ý Thức, Thích Thần Danh, Nghiệm Kỳ Danh, Vấn Luận Than, Vấn Hậu Thức Truy Ức Tiền Thức, Vấn Tứ Tướng, Ðại Trí Luận Yếu Lược, Vấn Ðại Thừa Trung Thâm Nghĩa Thập Bát Liệu Hợp, Vấn A Tỳ Ðàm Tâm Tự, Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Tự, Tu Hành Phương Tiện Kinh Tự, Tam Pháp Ðộ Tự, Pháp Tánh Luận, Niệm Phật Tam Muội Thi Tập Tự, Tương Duơng Trượng Lục Kim Tượng Tụng, Vạn Phật Ảnh Minh.

Công cuộc hoằng pháp ở Lô Sơn, bắt đầu là ngài Huệ Viễn, và lại có thêm ba vị sư huynh đệ đến đó hỗ trợ là: Huệ Trì, Huệ Vĩnh, và Ðàm Ung.

II. Ngài Huệ Trì cũng từng trú và cực lực hoằng dương chánh pháp tại Lô Sơn hơn năm mươi năm. Về sau, ngài Huệ Trì qua đất Thục, trụ trì chùa Long Uyên, hoằng dương Phật pháp rộng lớn.

III. Ngài Huệ Vinh trú tại chùa Tây Lâm ở Lô Sơn, giáo hóa rất nhiều đệ tử.

IV. Huệ Sung. Sau khi ngài Ðạo An nhập tịch, ngài Huệ Sung sang Lô Sơn, hỗ trợ ngài Huệ Viễn hoằng dương chánh pháp.

Ngoài ra, còn có ba vị đệ tử của ngài Ðạo An như: Ðàm Dực, Pháp Ngộ, Ðàm Huy, thường hoằng pháp tại Kinh Châu. Do sự nỗ lực và cống hiến công sức của ba vị đệ tử này mà Phật giáo tại vùng Kinh Châu phát triển rộng rãi.

V. Ðàm Dực.

Lúc ngài Ðạo An còn ở tại Tương Dương, thái thú Ðằng Xá ở Trường Sa lập chùa nơi đó, rồi thỉnh cầu ngài Ðạo An phái đệ tử đến đó để trụ trì, Ngài Ðạo An bảo thầy Ðàm Dực:

- Sĩ thứ ở Kinh Sở muốn cầu tông sư để giáo hóa chúng dân nơi đó. Ngoài con ra, thì còn có ai!

Thế nên, thầy Ðàm Dực vâng mạng mà vào nam, rồi trụ trì tại chùa Trường Sa. Khi bọn cuồng khấu vào cướp phá Giang Lăng, thầy Ðàm Dực chạy lánh nạn qua vùng Thượng Minh, rồi kiến lập chùa Thượng Minh nơi đó. Vùng Giang Lăng được bình yên, thì thầy Ðàm Dực trở lại chùa Trường sa. Thầy Ðàm Dực theo ngài Ðạo An, xuất gia từ năm mười sáu tuổi. Thầy nghiêm trì giới luật cẩn mật, học thông tam tạng kinh điển. Lúc đến đất Thục, thầy Ðàm Dực được thái sử Mao Cừ cung kính tôn trọng, cùng cúng dường thức ăn. Lần nọ, vì trong cơm có trứng gà, nên thầy Ðàm Cừ gạt ra rồi mới dùng. Thấy cử chỉ nghiêm trì giới luật cẩn mật, Mao Cừ lại càng thêm cung kính, cúng dường cả hàng ngàn đấu gạo cho thầy Ðàm Dực. Chùa Trường Sa sau này trở thành trung tâm quan trọng của Phật giáo tại vùng Giang Lăng.

VI. Pháp Ngộ cũng thường đến chùa Trường Sa giảng kinh thuyết pháp. Dưới tòa của thầy Pháp Ngộ có hơn bốn trăm đồ chúng.

VII. Ðàm Huy.

Chiến loạn ở Tương Dương phát khởi thì thầy Ðàm Huy cùng với ngài Ðạo An rời vùng đó. Trên đường đi, thầy Ðàm Huy lưu trú lại chùa Thượng Minh (do thầy Ðàm Dực xây cất) ở Kinh Châu. Nơi đó, thầy Ðàm Huy vẽ một tấm ảnh về dung mạo của ngài Ðạo An để lễ bái. Từ đó, chư tín đồ vùng Giang Lăng thường hướng về phía tây (tức Trường An) để lễ bái Bồ Tát Ấn Thủ (tức ngài Ðạo An).

VIII. Thầy Ðạo Lập vốn là đệ tử của ngài Ðạo An tại Trường An. Thầy Ðạo Lập thường ẩn cư tọa thiền một mình trong hang núi. Thầy thường ngồi suốt bảy ngày mà không đứng dậy. Sau này, thầy Ðạo Lập đột nhiên xuống núi, vân tập tăng chúng, khai giảng kinh Ðại Phẩm Bát Nhã. Qua vài ngày sau, không bịnh mà thị tịch.

Ðó là các vị đại đệ tử tiêu biểu giữa hàng ngàn đệ tử xuất gia của ngài Ðạo An. Họ nghiêm trì giới luật cẩn mật, cùng tu thiền khiến trí huệ cao vời, và thừa thọ đạo phong của ngài Ðạo An, rồi tận tâm tận sức hoằng dương Phật pháp tại Trường An, Lô Sơn, Kinh Châu, Thục Xuyên, v.v...

C. Ngài Trúc Pháp Nhã.

Ngài là người Hà Gian, oai nghi đoan chánh, lại có phong độ khí khái, tâm tánh thanh thoát, tự tại, không câu nệ, chấp nê. Lúc nhỏ thường học Thiện Trường Kinh, sử Bách Gia, cùng các ngoại điển khác. Lúc trưởng thành, thông đạt giáo nghĩa Phật pháp. Nhờ thừa thọ sự giáo huấn của ngài Phật Ðồ Trừng, nên ngài Trúc Pháp Nhã thâm đạt nghĩa lý Phật pháp dễ dàng. Vì thuở nhỏ đã từng thông suốt tư tưởng Lão Trang, nên một số đại sĩ phu, quan thần, danh sĩ rất tôn kính Ngài và thường theo học đạo. Những đệ tử của Ngài đều là những người đã từng thành công trong việc nghiên cứu ngoại điển, nhưng đối với giáo nghĩa Phật pháp cũng còn nhiều chỗ nghi ngại mù mờ. Do đó, Ngài cùng với thầy Khương Pháp Lãng, v.v...dung thông tương hòa giáo nghĩa Phật pháp với kinh sử bách gia, Lão Trang thuật ngữ, để giảng giải Phật pháp, mà gọi phương pháp đó là 'Cách Nghĩa'. Ví dụ, Ngài thường dùng chữ 'vô' của Lão Trang để giải thích chữ 'không' của đạo Phật. Dùng ngôn ngữ của cổ thư mà dIễn đạt ý nghĩa Phật pháp. Sau này, ngài Tỳ Phù, Ðàm Tướng, v.v... vận dụng phương thức 'Cách Nghĩa' này để dạy dỗ đồ chúng.

Vì đã liễu giải nghĩa lý thâm huyền, nên không luận là ngoại điển, nội kinh, Ngài có khả năng tương giao đàm luận giảng thuyết. Ðương thời, Ngài thường cùng với Ðạo An, Trúc Pháp Thái đồng thảo luận những nghĩa lý huyền hoặc và nơi thâm áo của kinh điển, để hiển minh yếu nghĩa Phật pháp. Sau này, Ngài lập chùa viện tại Cao Ba, vân tập hàng trăm đồ chúng.

Phật pháp vào buổi ban đầu, được lưu truyền rộng rãi vào tầng lớp sĩ phu ở Trung Thổ phần lớn là nhờ phương pháp 'Cách Nghĩa'. Do đó, người đại biểu cho 'Phật Giáo Cách Nghĩa' chính là ngài Trúc Pháp Nhã vào thời Ðông Tấn.

Ðàm Tập, đệ tử của Trúc Pháp Nhã, dùng giáo nghĩa của thầy mình làm nền tảng cho sự hoằng dương Phật pháp, nên được Thạch Tuyên của Hậu Triệu rất tôn kính.

D. Ngài Tăng Lãng tại núi Thái Sơn, hưng khởi Phật giáo ở Sơn Ðông.

Ngài Tăng Lãng vốn là người Kinh Triệu. Lúc nhỏ đã từng đi khắp nơi tham học vấn đạo nơi các bậc cao đức, và thân cận tu học theo sự giáo huấn của ngài Phật Ðồ Trừng. Lần nọ, đang trò chuyện với các vị pháp hữu trên đường, Ngài bèn bảo họ:

- Trong chùa của các vị, hình như có nguời đến ăn cắp đồ vật.

Nghe thế, họ vội trở về chùa, bắt được kẻ trộm, mà chưa bị mất gì cả. Ngài cũng có năng lực thàn dị giống như ngài Phật Ðồ Trừng. Trưởng thành, Ngài trở về Quan Trung, chuyên ròng giảng kinh, chủ yếu là kinh Phóng Quang Bát Nhã (do Trúc Thúc Lan dịch vào năm 291). Ngài thủ trì trai giới, thân mặc vải bố, chí hướng vượt ngoài thế tục, bác học uyên thâm, chiêm nghiệm được những việc lành dữ.

Ðời Tiền Tần Phù Kiên, niên hiệu Hoàng Thủy nguyên niên (351), Ngài qua trú tại núi Thái Sơn. Trên núi, có một sơn cốc, được gọi là Kim Dư, mà phong cảnh rừng núi suối ngòi chung quanh rất là hùng vĩ. Thế nên, Ngài lập am tranh tại nơi đó. Nghe thanh danh của Ngài, hơn một trăm người, lũ lượt kéo nhau đến cầu đạo. Do lòng cầu đạo chân thành của họ, Ngài đối đáp không màng mỏi mệt. Trên núi Thái Sơn, cũng có một đạo sĩ ẩn tu là Trương Trung. Ông cũng có đồ đệ, nhưng thường dùng thân mà giáo hóa họ.

Ngài Ðạo An và Trúc Pháp Hòa đã từng đến thăm Ngài tại cốc Kim Dư. Lần đó, trên đường leo lên đỉnh núi Thái Sơn để đến cốc Kim Dư, thấy ngọn núi cao chót vót, thầy Trúc Pháp Hòa than thở:

- Ngọn núi này cao quá đổi, mà người du hành lên đây lại rất nhiều. Nếu chẳng may bị trượt chân, thì sẽ rời thế gian, rồi không biết đi về đâu!

Ngài Ðạo An nói:

- Nầy Pháp Sư! Chỉ cần yếu là đạo tâm phải kiên cố vững bền, thì lo sợ gì vào đời sau sẽ đi đâu? Nếu tâm không có đạo, thì mới bi thương như thế!

Vua Tiền Tần là Phù Kiên, phái sứ giả đến Thái Sơn, thỉnh mời ẩn sĩ Trương Trung về triều. Sau khi tiếp kiến, Phù Kiên tặng y áo, nhưng Trương Trung không thọ nhận, nhưng thuật lại sự tích và hành tung dị thường của ngài Tăng Lãng cho nhà vua nghe. Phù Kiên bèn sai sứ đem thơ đến càu thỉnh Ngài về kinh đô. Thơ viết:" Hoàng Ðế cung kính thăm vấn Tăng Hòa Thượng. Ðại Thánh thần thái cao siêu, che chở giáo hóa muôn loài chúng sanh, ví như biển cả núi cao thường trưởng dưỡng sanh sản quần sinh, và giống như trời đất dưỡng dục sanh thành vạn vật, dưỡng tồn sự sinh tử. Tinh thần này tức gọi là Trừng Tịch. Trẫm ước vọng tương hội Thánh Tăng. Ngặt vì đường dài vạn dặm, không thể xa giá. Nay sai quan sử đem xe cung nghinh, thỉnh Ngài hãy giá lâm đô thành Kinh Ba. Trẫm cũng cúng dường vài cân vàng để phết sơn tôn tượng Phật, và ba mươi sấp lụa mỏng, cùng ba người nô bộc, để cung phụng quét dọn hầu hạ. Ngưỡng vọng Ngài nạp thọ cho..."

Cùng đem theo này, sứ giả triều đình cũng mang theo phẩm vật, nô tỳ đến để cúng dường cung phụng cho Ngài. Ngài bèn từ chối nhận lễ vật, và viết thơ gởi Phù Kiên:"... Bần đạo vốn đã xuất gia, tâm khô kiệt nơi rừng sâu núi lạnh, tinh thần suy nhược, chưa từng có khả năng hoằng dương Phật pháp. Bần đạo nào hay biết Ðiện Hạ từ phương xa gởi thơ đến vấn hỏi đến núi non, rồi ân cần triệu vời về kinh đô. Bần đạo thật cảm kích từ ân của Thánh Thượng. Song, vì khí lực suy nhược, không thể kham nổi đường xa và thọ nhận những lễ vật này."

Ðây là biểu hiện thái độ không phan duyên thọ hưởng ân sủng của vua chúa, mà chỉ thích cư trú nơi núi rừng để giữ đạo tu hành thanh khiết của Ngài.

Khi muốn chỉnh lý tăng đoàn Phật giáo, Phù Kiên lại ban sắc lịnh:" Tăng Pháp Sư giới đức cao tột; đồ chúng cũng nghiêm trì giới luật thanh tịnh. Vì vậy, đối với giáo đoàn tại núi Côn Lôn (tức núi Thái Sơn), không cần phải tra xét."

Cũng như thầy bổn sư, tức ngài Phật Ðồ Trừng, ngài Tăng Lãng nghiêm trì giới luật cẩn mật, nên được Phù Kiên tôn kính trọng vọng như thế. Sau này, Phù Kiên công phá Tương Dương, rồi thỉnh ngài Ðạo An về Trường An (như đã kể ở phần trên).

Ngài cũng được vua Thác Bạt Khuê (386-409) của Hồ tộc tôn kính, sai sứ đem lễ vật cúng dường đến núi Thái Sơn như lụa tơ, bình bát bằng bạc, v.v...

Vua Dao Hưng (393-415) đời Hậu Tần cũng sai sứ đem ba cấp kim phù đàn, một bộ kinh, và một bảo đài đến núi Thái Sơn, cúng dường Ngài.

Vua Ðông Tấn, Hiếu Võ Ðế cũng từng gởi thơ đến thăm hỏi Ngài. Sau khi nước Tiền Tần của Phù Kiên diệt vong, vùng Hà Bắc do Hậu Yến Mộ Dung Thùy, và vùng Hà Nam do Hậu Yến Mộ Dung Ðức cai quản. Hai vị vua này cũng từng gởi thơ và lễ vật đến cho Ngài. Mộ Dung Thùy sai sứ đem thơ và lễ vật đến cúng dường. Thơ viết:" Nguyện quân binh không còn chém giết lẫn nhau, để bốn bể đều được thái bình. Nay vì đem tâm thành kính, sai sứ giả mang một trăm xấp lụa, năm mươi cân bông vải, ba bộ y ca sa, để cầu mong Ngài chú nguyện cho thiên hạ thái bình."

Nam Yến Mộ Dung Ðức viết thơ:" Trẫm vốn vô đức, sanh làm dị dân, vào nhằm thời loạn, chợt được kế thừa vương vị, đều nhờ Hòa Thượng và chư thần đại ân gia hộ. Vì vậy, không những sai sứ mang tơ lụa đến cúng dường, mà phong cho Ngài danh hiệu là Ðông Tề Vương, cấp cho hai huyện Thái An và Trường Thanh ở Sơn Ðông. Thư chẳng viết tận hết ý. Xin hiểu tâm của Trẫm!"

Qua lời này, thấy rõ ngài Tăng Lãng được Mộ Dung Ðức ban hiệu là Ðông Tề Vương, và ban cho hai huyện để xây chùa viện tháp tự, cùng được miễn thuế để tạo công đức.

Lúc đến cốc Kim Dư lập am tranh tịnh xá, Ngài thường tu thiền và hiển hiện những thần lực để trị loài hổ, cứu dân trong vùng. Song, thông thường loài hổ là hóa thân của của các vị thần núi. Ngài hàng phục được loài hổ, tức là đã khiến thần núi tín phụng Phật pháp. Vì có danh tiếng phục hổ, nên người đương thời thường gọi Ngài là 'Tăng Công Cốc'.

Ngài Tăng Lãng tuy không để lại những trước tác gì, nhưng lại dùng thân giáo hóa đồ chúng, và dùng năng lực thần kỳ cùng tài trí cơ phong để hóa độ vua chúa. Am tranh nơi cốc Kim Dư của Ngài, sau này được xây cất thành chùa Thần Thông, và là nơi hội tụ của các bậc thiền gia, cùng học giả đến tu hành, điển hình là ngài Tăng Ý (vị chứng quả Tu Ðà Hoàn), thiền sư Hàng Ma Tạng (đệ tử của ngài Thần Tú), v.v... Thiền sư Hàng Ma Tạng cũng dùng hình thức không y theo văn tự mà giáo hóa đồ chúng như ngài Tăng Lãng tại đó. Thiền Sư cũng xưng tán ngài Tăng Lãng là 'Á Lưu Thiền Giả'.

16. Ngài Tăng Già Ðề Bà (Sanghadeva).

Ngài Tăng Già Ðề Bà cũng được gọi là Tăng Già Ðề Hòa; Tàu dịch là Chúng Thiên. Bổn tánh là Cù Ðàm, người nước Kế Tân. Xuất gia xong, tu hành tinh tấn, chẳng màng đường xa vạn dặm, mà đi tham tầm minh sư để thọ nghiệp. Mau chóng quán thông ba tạng, kinh luật, luận, và sở trường là chuyên về 'A Tỳ Ðàm Tâm Luận'. Ðối với yếu chỉ thâm sâu tinh tế của kinh luận, đều có thể thông đạt liễu ngộ. Ngài thường tụng trì bộ luận 'Tam Pháp Ðộ', và lấy đó làm pháp môn thiết yếu để nhập vào đạo Phật. Phong cách của Ngài thanh cao; cử chỉ hành động ôn hòa khiêm cung; chuyên cần dạy dỗ đồ chúng mà không mỏi mệt. Ðời Tiền Tần Phù Kiên, trong niên hiệu Kiến Nguyên (365-384), Ngài đến Trường An, tuyên dương Phật pháp.

Ðương thời, sa môn Tăng Già Bạt Trừng đã dịch quyển 'Bà Tu Mật Ngữ'. Sa môn Ðàm Ma Nan Ðề đã dịch kinh Trung A Hàm, kinh Tăng Nhất A Hàm, kinh Tỳ Ðàm Quảng Thuyết, luận Tam Pháp Ðộ, v.v... Bấy giờ, vì loạn Mộ Dung Sung, nên công tác phiên dịch bị gián đoạn. Lại nữa, vì hoàn cảnh đảo điên, nên các nhà dịch giả phải lưu lạc khắp nơi, khiến các bản kinh vừa dịch xong, không thể được hiệu đính, nhuận sắc, làm cho văn cú ý chỉ bị sai lệch rất nhiều. Lúc ấy, ngài Ðạo An cũng vừa nhập tịch, nên không có ai phát tâm cải chính nhuận sắc lại những kinh điển vừa được dịch. Do đó, ngài Tăng Già Ðề Bà cùng với Trúc Pháp Hòa đồng đến Lạc Dương. Tại nơi đó, trong khoảng năm năm, nhờ thông hiểu tiếng Tàu, nên ngài Tăng Già Ðề Bà suốt ngày xem xét nghiên cứu, sửa đổi những chỗ sai lầm thiếu sót của các bản dịch mới. Trúc Pháp Hòa sau này cũng thỉnh ngài Tăng Già Ðề Bà dịch luận A Tỳ Ðàm.

Chẳng bao lâu, Hậu Tần Dao Hưng vào Trường An, và sùng tín Phật pháp, nên chánh giáo đưọc hưng long. Biết được tin này, Trúc Pháp Hòa bèn trở lại Trường An. Ngài Tăng Già Ðề Bà thì xuôi vào miền Giang Nam, rồi được ngài Huệ Viễn thỉnh lên núi Lô Sơn giảng kinh thuyết pháp. Tại Bát Nhã Ðài ở Lô Sơn, do lời thỉnh cầu của ngài Huệ Viễn, ngài Tăng Già Ðề Bà dịch quyển 'A Tỳ Ðàm Tâm Luận', và 'Tam Pháp Ðộ Luận'. Văn dịch đều bảo tồn được nguyên vẹn, và ý chỉ rất rõ ràng. Năm 397, Ngài rời Lô Sơn, đến Kiến Khang (tức Nam Kinh), kinh đô của triều Ðông Tấn. Ðương thời, các vương công, danh sĩ thường qua lại giao hảo với Ngài. Vệ quân lang gia Vương Tuần tín phụng Phật pháp, thường xây cất tịnh xá, chiêu tập đại chúng, quảng tuyên chánh giáo. Nghe tin ngài Tăng Già Ðề Bà đã đến kinh sư, Vương Tuần bèn cung thỉnh đến tịnh xá để giảng kinh A Tỳ Ðàm, khiến các vị danh tăng ở khắp nơi đổ dồn về đó. Nhờ Ngài tinh thông yếu chỉ kinh luận và giải thích văn nghĩa thật chính xác rõ ràng, nên lúc khai triển nghĩa lý, khiến tín chúng hân hoan lãnh hội.

Mùa đông năm đó, Vương Tuần và hơn bốn mươi vị sa môn nghĩa học, cùng đồng cung thỉnh ngài Tăng Già Ðề Bà dịch kinh Trung A Hàm. Lúc đó, sa môn Tăng Già La Xoa (người nước Kế Tân) đọc tiếng Phạn, còn ngài Tăng Già Ðề Bà dịch ra tiếng Tàu.

Nhờ thông suốt kinh luật luận, cùng tinh tường hiểu rõ phong tục tập quán nhân tình ở Tây Vực và Ðông Ðộ, lại có ngôn đàm ứng hợp với căn cơ, nên công nghiệp hoằng pháp của ngài Tăng Già Ðề Bà ảnh hưởng mạnh mẽ ở vùng Giang Nam, khiến nhiều người đổ đến cầu đạo. Sau này, không ai biết ngài Tăng Già Ðề Bà tịch ở đâu và vào lúc nào.

17. Ngài Ðàm Ma Nan Ðề (Dharmanandi).

Ngài Ðàm Ma Nan Ðề (dịch là Pháp Hỉ), vốn là người Ðâu Khư Lặc (tức nước Thổ Hỏa La hay Ðại Nhục Chi, nơi thường tín phụng giáo lý tiểu thừa). Ngài xuất gia vào lúc còn trẻ. Trí huệ thông minh, mẫn tiệp, thường chuyên cần tụng đọc kinh điển, xem khắp ba tạng, thích nghiên cứu tu học hai bộ kinh Tăng Nhất A Hàm và Trung A Hàm, kiến thức rộng sâu, đa văn thông suốt tất cả pháp, khiến các học giả trong và ngoài nước, xa gần đều bội phục.

Lúc trẻ, Ngài thường đi khắp chư quốc, và có ý chí cùng hoài bão sang Ðông Ðộ hoằng dương chánh pháp. Trong niên hiệu Kiến Nguyên (365-384), đời Tần Phù Kiên, Ngài đến Trường An. Nghe thanh danh của Ngài, rất nhiều danh sĩ tìm đến học đạo. Tần Phù Kiên vừa gặp được Ngài thì đón tiếp lễ bái thâm hậu.

Vì lúc ấy Trung Thổ chưa có bốn quyển kinh A Hàm, nên thái thú Triệu Chánh muốn cầu Ngài dịch kinh. Ðương thời, Mộ Dung Sung phản loạn, khởi binh đánh Tần Phù Kiên, khiến Trường An náo loạn. Do ngưỡng mộ Phật pháp, quyết xả thân vì đạo, thái thú Triệu Chánh bèn cầu ngài Ðạo An vân tập các danh tăng ở Truờng An, thỉnh ngài Ðàm Ma Nan Ðề dịch Trung A Hàm, Tăng Nhất A Hàm, Tỳ Ðàm Tâm, Tam Pháp Ðộ, v.v... Tổng cộng ngài Ðàm Ma Nan Ðề dịch được một trăm lẻ sáu quyển. Ngài Ðàm Ma Nan Ðề thật là một nhà chuyên gia về kinh A Hàm. Lúc ấy, thầy Trúc Phật Niệm chuyển ngữ, và thầy Huệ Sùng ghi chép. Từ mùa hè cho đến mùa xuân năm sau thì mới hoàn tất. Ngài Ðạo An và Trúc Pháp Hòa cùng kiểm duyệt trau chuốt lời văn.

Vào tháng năm, năm 385, Dao Trường vây hãm Trường An, khiến nhân tâm xáo trộn. Ngài Ðàm Ma Nan Ðề bèn rời Trường An, trở về Tây Vực, rồi không ai biết Ngài thị tịch tại nơi nào.

18. Ngài Ti Ma La Xoa (Vimalaksas).

Ti Ma La Xoa, dịch là Vô Cấu Nhãn. Ngài là người nước Kế Tân. Tánh tình trầm tĩnh, nhưng lại có chí khí. Xuất gia xong, Ngài chuyên cần tu khổ hạnh. Ðầu tiên, Ngài xiển dương tạng luật ở nước Quy Từ. Các học giả ở phương tây canh cánh theo học đạo. Ngài Cưu Ma La Thập cũng đã từng theo ngài Ti Ma La Xoa mà thọ giới luật. Vì nước Quy Từ bị nạn binh đao vào năm 382, nên Ngài sang lánh nạn tại nước Ô Triền (Uddiyana). Nghe ngài Cưu Ma La Thập đang hoằng dương kinh tạng tại Trường An, nên ngài Ti Ma La Xoa cũng muốn sang Ðông Ðộ để xiển dương luật tạng tỳ ni thù thắng. Vì vậy, Ngài chống tích trượng vượt bao sa mạc núi đồi nguy hiểm mà đến Trường An vào năm 406. Nơi đó, ngài Ti Ma La Xoa vẫn được ngài Cưu Ma La Thập kính lễ như bậc tôn sư.

Sau khi ngài Cưu Ma La Thập nhập tịch, ngài Ti Ma La Xoa vân du đến Thọ Xuân, cư trú tại chùa Thạch Giản. Ðồ chúng theo Ngài học luật tạng rất đông, khiến pháp Tỳ Ni được xiển dương hưng thạnh.

Ngài Cưu Ma La Thập dịch hết bộ Thập Tụng Luật, được năm mươi tám quyển. Bộ Tụng Luật cuối cùng nhất được gọi là Minh Thọ Giới Pháp và Chư Thành Pháp Thiện Sự. Do nghĩa đó mà gọi bộ này là Thiện Tụng. Ðến chùa Thạch Giản, ngài Ti Ma Na Xoa viết thêm thành sáu mươi mốt quyển, và đổi tên bộ Tụng Luật cuối cùng là Tỳ Ni Tụng.

Sau này, tại chùa Tân Tự ở Giang Lăng, Ngài lên tòa giảng bộ Thập Tụng Luật. Nhờ Ngài thông thạo tiếng Tàu, nên khiến thính giả lãnh hội dễ dàng. Diệu bổn vô tác được xiển dương mạnh mẽ. Những kẻ chiết văn cầu lý vân tập dưới tòa của Ngài đông như rừng. Luật tạng được hoằng duơng rộng rãi đều là nhờ công của ngài Ti Ma La Xoa.

Tại chùa Ðạo Tràng, nhờ thâm nhập tông chỉ luật tạng do ngài Ti Ma La Xoa diễn giảng, nên Huệ Quán ghi lại những điều cấm chỉ khinh trọng (nặng nhẹ) trong giới luật mà soạn viết thành hai quyển, rồi đem qua kinh sư. Tăng ni nơi đó canh cánh đua nhau truyền trao sao chép. Ðương thời, các học giả thường bảo:

- Ngài Ti Ma La Xoa vừa nói ra lời nào thì Huệ Quán liền sao chép lại hết.

Bấy giờ, các bản sao chép lại những lời của ngài Ti Ma La Xoa giảng giải, được mọi người quý trọng như ngọc báu.

Ngài Ti Ma La Xoa thường lánh xa thế tục mà tu dưỡng đức nơi chốn thanh nhàn. Vào năm bảy mươi bảy tuổi, ngài Ti Ma La Xoa nhập tịch tại chùa Thạch Giản ở Thọ Xuân. Ngài Ti Ma La Xoa vốn là con mắt của thế nhân, nên được người đời xưng tán là Thanh Nhãn Luật Sư.

19. Ngài Phật Ðà Da Xá (Buddhayasas).

Phật Ðà Da Xá, dịch là Giác Minh. Ngài là người nước Kế Tân, thuộc dòng dõi bà la môn, gia thế thường tín phụng ngoại đạo. Lần nọ, có một sa môn đến nhà của Ngài để khất thực. Người cha tức giận, nên sai người ra đánh vị sa môn kia. Lúc ấy, chân tay của người cha đều bị đau nhức, nên không thể làm việc đến đi như bình thường. Do đó, ông ta đến hỏi các Tọa Sư. Họ bảo:

- Vì ông đã xúc phạm đến hiền nhân, nên bị quỷ thần phạt vạ.

Nghe lời này, ông ta bèn lễ bái vị sa môn kia, để cầu xin sám hối. Bịnh đau nhức tay chân qua vài ngày sau từ từ được thuyên giảm. Tận mắt chứng kiến việc này, ngài Phật Ðà Da Xá bèn theo vị sa môn kia mà xuất gia tu đạo vào lúc mười ba tuổi. Ngài Phật Ðà Da Xá thường theo thầy bổn sư đi vào các vùng hoang dã xa xăm. Lần nọ, vừa thấy một con hổ từ xa đi tới, vị thầy bổn sư sợ hãi định bỏ chạy, nhưng ngài Phật Ðà Da Xá nói:

- Con hổ này đã ăn no rồi. Nó không còn giết hại người nữa đâu!

Quả nhiên con hổ kia từ từ bỏ đi xa. Tiến bước, họ thấy xương người vừa bị hổ ăn, nằm ngỗn ngang, máu mủ loang ra khắp nơi. Qua việc này, vị thầy bổn sư của Ngài rất kinh ngạc. Năm mười lăm tuổi, mỗi ngày Ngài đọc thuộc ba trăm mươi ngàn lời. Ngài thường ra ngoài vệ đường kế bên chùa mà đọc tụng kinh điển. Có một vị A La Hán vì nể trọng trí thông minh mẫn tiệp của Ngài nên thường chia xẻ phần ăn được tín thí cúng dường. Năm mười chín tuổi, Ngài tụng thuộc hàng triệu lời kinh đại thừa và tiểu thừa. Song, vì Ngài có tánh tự kiêu, nên tuy đến tuổi mà chư tăng vẫn không cho thọ giới cụ túc, tức vẫn làm sa di. Ngài vẫn theo lối xưa mà học Ngũ Minh, các pháp thuật ở thế gian, v.v... Ðến năm hai mươi bảy tuổi, Ngài mới được thọ giới cụ túc, và thường tụng đọc kinh điển, tay không rời quyển kinh. Mỗi lần thiền quán, Ngài ngồi suốt hàng giờ mà không để ý đến. Ngài luôn chuyên cần tinh tấn tu hành như thế.

Sau này, Ngài đến nước Sa Lặc. Lần nọ, quốc vương cúng dường trai tăng cho ba ngàn tăng chúng. Ngài cũng ở trong số tăng sĩ đó. Bấy giờ thái tử Ðạt Ma Phất Ða (dịch là Pháp Tử), thấy dung mạo đoan trang tề chỉnh của Ngài bèn hỏi rằng từ đâu đến. Ngài bèn đối đáp rõ ràng. Thái tử vui mừng, thỉnh Ngài vào lưu trú trong nội cung, và ân cần hậu đãi. Ngài Cưu Ma La Thập khi đến nước Sa Lặc, cũng đã từng tôn sùng và theo học đạo với ngài Phật Ðà Da Xá. Lúc ngài Cưu Ma La Thập theo người mẹ trở về nước Quy Từ, ngài Phật Ðà Da Xá vẫn lưu trú tại nước Sa Lặc.

Thời gian sau, quốc vương nước Sa Lặc qua đời, thái tử Ðạt Ma Phất Ða lên ngôi. Ðương thời, Tần Phù Kiên sai Lữ Quang dẫn quân sang đánh chiếm nước Quy Từ. Quốc vương nước Quy Từ bèn cấp tốc gởi thơ sang nước Sa Lặc để cầu viện binh. Vua Ðạt Ma Phất Ða tự thân dẫn viện binh sang nước Quy Từ, chỉ giữ lại ngài Phật Ðà Da Xá và thái tử để phòng hậu sự. Viện binh của vua Ðạt Ma Phất Ða chưa đến thì nước Quy Từ đã bị Lữ Quang xâm chiếm. Do đó, vua Ðạt Ma Phất Ða bèn dẫn quân trở về bổn quốc và thuật lại việc Lữ Quang bắt được ngài Cưu Ma La Thập. Ngài Phật Ðà Da Xá bèn than:

- Ta đã từng gặp Cưu Ma La Thập, nhưng chưa mãn nguyện. Cưu Ma La Thập bị nạn này; Ta không biết bao giờ mới gặp được.

Hơn mười năm, ngài Phật Ðà Da Xá hoằng hóa tại miền đông của nước Quy Từ, khiến Phật pháp hưng thạnh. Bấy giờ, đang bị Lữ Quang giữ tại Cô Tạng, ngài Cưu Ma La Thập viết thơ sang vấn an ngài Phật Ðà Da Xá. Tuy có ý muốn sang Cô Tạng, nhưng ngài Phật Ðà Da Xá bị quốc dân trong nước lưu giữ lại, nên đành phải ở lại thêm vài năm. Cuối cùng, Ngài bảo chư đệ tử:

- Ta muốn sang Cô Tạng để gặp Cưu Ma La Thập. Vì vậy, tối hôm nay chúng ta hãy bí mật mang hành lý mà đi.

Chư đệ tử thưa:

- Chỉ e sợ đến trời sáng thì bị bắt trở về.

Ngài bèn đổ nước vào trong một bình thuốc, đọc tụng thần chú vài mươi biến, rồi cùng chư đệ tử lấy nước đó để rửa chân. Ðêm hôm đó, Ngài cùng chư đệ tử khởi hành, đi nhanh như gió, vượt cả trăm dặm. Lúc dừng lại, Ngài bèn hỏi rằng chư đệ tử cảm giác như thế nào. Họ đáp:

- Chỉ nghe gió thổi vù vù, khiến chảy nước mắt.

Ngài lại gia trì thần chú rồi đưa cho họ để rửa chân. Sáng hôm sau, quốc dân truy đuổi theo, nhưng Ngài và chư đệ tử đã đi quá trăm dặm, nên không có cách chi bắt kịp. Lúc ngài Phật Ðà Da Xá đến Cô Tạng vào năm 402, thì ngài Cưu Ma La Thập đã đến Trường An. Nghe vua Dao Hưng bắt ép ngài Cưu Ma La Thập lấy thê thiếp, ngài Phật Ðà Da Xá than:

- Cưu Ma La Thập như bông lụa. Sao lại bỏ vào rừng cỏ gai?

Nghe tin ngài Phật Ðà Da Xá đã đến Cô Tạng, ngài Cưu Ma La Thập bèn khuyên vua Dao Hưng hãy thỉnh mời về Trường An. Song, vua Dao Hưng vẫn chưa chịu nghe theo. Vâng mạng vua Dao Hưng phiên dịch kinh điển, ngài Cưu Ma La Thập bảo:

- Người hoằng dương giáo pháp, phải có tài thông suốt văn nghĩa. Bần đạo tuy thông văn tự, nhưng chưa thấu suốt lý kinh, duy chỉ có ngài Phật Ðà Da Xá đã thông đạt thâm sâu nghĩa lý vi huyền, hiện nay đang trú tại Cô Tạng. Xin Ðiện Hạ hãy triệu vời về Trường An.

Nghe lời này, vua Dao Hưng bèn sai sứ thỉnh ngài Phật Ðà Da Xá về Trường An, và tặng lễ vật thâm hậu. Ngài không nhận lễ vật. Vua Dao Hưng bèn sắp đặt cho ngài Phật Ðà Da Xá biệt trụ tại Tiêu Diêu Viên, rồi tứ sự cúng dường. Song, ngài Phật Ðà Da Xá vẫn không tiếp thọ, mà tự mang bình bát ra đường khất thực.

Lần nọ, dịch xong quyển kinh Thập Trụ, ngài Cưu Ma La Thập vẫn do dự nghi ngờ, hơn cả tháng mà chưa dám thảo bút. Lúc ấy, ngài Phật Ðà Da Xá chợt đi đến. Vì vậy, ngài Cưu Ma La Thập cùng ngài Phật Ðà Da Xá thảo luận, định quyết nghĩa lý. Chư tăng và kẻ tục hơn ba ngàn người đều tôn kính ngài Phật Ðà Da Xá. Vì thông suốt và giải thích rõ ràng quyển Tỳ Bà Sa, nên đại chúng đồng gọi ngài Phật Ðà Da Xá là Ðiệc Tì Tỳ Bà Sa. Vì ngài Phật Ðà Da Xá vốn là thầy của ngài Cưu Ma La Thập, nên đại chúng cũng xưng tán là Ðại Tỳ Bà Sa. Tuy được tứ sự cúng dường, y bát ngọa cụ đầy cả ba gian phòng mà ngài Phật Ðà Da Xá vẫn không màng để tâm đến. Thấy vậy, vua Dao Hưng bèn sai người đem hết những vật này, đổi lấy tiền xây chùa ở phía nam thành Trường An cho Ngài cư trú.

Lần nọ được Dao Sảng thỉnh cầu, ngài Phật Ðà Da Xá bèn tụng đọc bộ luật Ðàm Vô Ðức, có hơn năm mươi ngàn lời. Vua Dao Hưng nghi là văn nghĩa có chỗ sai lầm, nên kiểm duyệt lại. Suốt hai ngày, vua Dao Hưng chẳng tìm được một chữ nào sai trái, nên càng kính phục trí nhớ siêu việt của ngài Phật Ðà Da Xá.

Năm 410, ngài Phật Ðà Da Xá dịch ra bốn mươi quyển Tứ Phần Luật, kinh Trường A Hàm, v.v... Sa môn Trúc Phật Niệm ở Lương Châu dịch thành tiếng Tàu. Sa môn Ðạo Hàm ghi chép. Ðến năm 413, ngài Phật Ðà Da Xá ngưng thuyết giảng, dịch kinh, và từ biệt trở về cố quốc. Vua Dao Hưng cúng dường cả mười ngàn xấp vải, nhưng Ngài không nhận lấy. Sa môn Ðạo Hàm và Trúc Phật Niệm cúng dường cho Ngài cả ngàn xấp lụa. Hơn năm trăm sa môn danh đức đều cùng cúng dường Ngài rất nhiều lễ vật.

Trở về nước Kế Tân, ngài Phật Ðà Da Xá thỉnh được một quyển kinh Hư Không Tạng, bèn gởi đến cho chư tăng ở Lương Châu. Sau này, không ai biết ngài Phật Ðà Da Xá tịch ở nơi đâu.

trang 3

Thần Tăng Thiên Trúc

123 4

 

20. Ngài Cưu Ma La Thập (Kumarajiva).

Cưu Ma La Thập tiếng Tàu dịch là 'Ðồng Thọ', có nghĩa là tuy tuổi nhỏ mà đức hạnh lão luyện. Danh Cưu Ma La Thập vốn là Cưu Ma La Kỳ Bà. Vì tên của người Tây Vực đa số thường dùng danh tự của cha mẹ. Cha của Ngài tên là Cưu Ma Ðàm, và bà mẹ tên là Kỳ Bà, nên hợp lại hai tên, thành Cưu Ma La Kỳ Bà. Tổ tiên của Ngài vốn cư trú ở nước Thiên Trúc, xuất sanh vào khoảng năm 340, gia tộc đời đời thường làm cao quan trong triều đình. Ông nội của Ngài là Ðạt Ða, tánh tình hào phóng, lỗi lạc siêu quần, được quốc dân kính trọng. Cha của Ngài, tức Cưu Ma Ðàm, thông minh mà lại có oai đức. Lúc sắp kế thừa địa vị Tể Tướng, Ông bèn nhượng từ mà xuất gia, đi hướng về phía đông nam, vượt qua ngọn Thông Lãnh, để đến nước Quy Từ (Kuchar). Lúc chưa vào biên cảnh nước Quy Từ, mà quốc vương nước đó đã nghe danh của Cưu Ma Ðàm là từ bỏ vinh hoa phú quý mà xuất gia tu đạo, nên khởi tâm cung kính vô biên, bèn ra ngoài nghinh tiếp, rồi tôn ngưỡng làm quốc sư. Các vương quốc ở Tây Vục vì tôn kính chư sa môn, nên thường có tập quán là tôn làm quốc sư.

Quốc vương có một người em gái, lứa tuổi đôi mươi, tài hoa thông minh mẫn tiệp, đọc qua kinh thư một lần bèn hiểu rõ, nghe qua một lần bèn thuộc nhớ. Trên mặt bà có một nốt ruồi son, mà các ẩn sĩ thường bảo đó là tướng lành, sẽ sanh được quý tử. Thế nên, chư quốc vương tranh nhau mang lễ vật cầu hôn, mà bà không vừa ý. Song, vừa thấy Cưu Ma Ðàm, bà ta bèn chịu làm vợ. Quốc vương biết ý của cô em, nên cưỡng ép Cưu Ma Ðàm thành hôn với bà ta. Cưới nhau chẳng bao lâu, họ sanh ra được ngài Cưu Ma La Thập. Lúc ngài Cưu Ma La Thập còn nằm trong bào thai, bà Kỳ Bà có nhiều khả năng lạ thường. Từ lúc mang thai ngài Cưu Ma La Thập, trí huệ và thần ngộ liễu giải của bà ta vượt siêu bình thường. Nghe đại tùng lâm Tước Lê có nhiều vị danh tăng đắc đạo, nên bà cùng với các người phụ nữ dòng vương gia quý tộc, và các ni sư tu hành đắc đạo, đến nơi đó mà thiết lễ lễ trai tăng, thỉnh pháp nghe kinh. Ðại tùng Lâm Tước Lê vốn ở tại nước Kiền Ðà La (Gandhara), mà nơi đó có một tháp tự nổi tiếng là Tước Ly Phù Ðồ. Ðang lúc nghe kinh, bà ta tự thông hiểu ngôn ngữ Thiên Trúc, và đối với bao vấn đề khó khăn, đều đối đáp không do dự. Người người đều lấy làm kỳ lạ. Một vị A La Hán tên là Ðạt Ma Cù Sa bảo:

- Ðây là điềm báo ứng rằng bà ta nhất định đang mang thai một vị đại trí huệ. Xưa kia, khi tôn giả Xá Lợi Phất còn nằm trong bụng mẹ, đã từng khiến cho mẫu thân được biện tài vô ngại. Ðó là điềm dự báo chứng minh cụ thể.

Ngài Cưu Ma La Thập xuất sanh, thì mẫu thân không thể biết được tiếng Thiên Trúc. Thời gian sau, mẹ Ngài phát tâm xuất gia, mà cha Ngài không cho phép. Chẳng bao lâu, bà ta sanh thêm một người con trai, tên là Phất Sa Ðề Bà. Lần nọ, nhân dịp ra ngoài thành du ngoạn, bà thấy nơi nghĩa địa xương cốt bày la liệt khắp nơi, bèn thâm cảm nhân sanh khổ, không, vô thường, nên quyết chí xuất gia. Bà thệ rằng nếu không xuống tóc làm ni sư, thì đoạn tuyệt ăn uống cho đến chết. Cứ như thế trải qua sáu ngày, hơi thở bà dần dần kiệt quệ. Cha Ngài thấy tâm bà ta đã quyết chí, nên đáp ứng lòng mong cầu của bà ta, mà cho phép xuất gia. Bà vẫn không tin; mãi đến khi được người khác cạo tóc cho, thì mới chịu ăn uống trở lại. Bà liền vào chùa, thọ giới và học pháp thiền. Từ đó, bà tu hành tinh tấn không chút giải đãi, nên mau chóng chứng sơ quả Tu Ðà Hoàn.

Lúc được bảy tuổi, ngài Cưu Ma La Thập cũng theo mẹ đi xuất gia, và lại theo thầy bổn sư mà đọc tụng kinh thư. Mỗi ngày, Ngài đọc thuộc một ngàn câu kệ. Mỗi câu kệ có ba mươi hai chữ. Tổng cộng là ba mươi hai ngàn chữ. Thầy bổn sư của Ngài lại thường đưa cho kinh điển A Tỳ Ðàm, và chỉ giải thích sơ qua thôi, mà Ngài liền thông đạt, chẳng bị trở ngại nơi nào. Vì thế, thần đồng Cưu Ma La Thập học thuộc hết kinh luận Tỳ Ðàm.

Vì mẹ Ngài xuất thân từ dòng vương gia, nên người nước Quy Từ cúng dường bà ta rất thâm hậu. E sợ việc này ảnh hưởng đến sự chuyên tâm tu hành, nên chẳng bao lâu bà ta dẫn Ngài đi sang nước khác. Lúc chín tuổi, Ngài theo bà mẹ vượt sông Tân Ðầu để đến nước Kế Tân. (Ngài Phật Ðồ Trừng xuất thân tại nước Quy Từ, rồi qua nước Kế tân tu học. Ðó là phong tục thông thường vào đương thời. Nước Kế Tân vốn là nơi mà thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ rất được thạnh hành. Hậu bán thế kỷ thứ tư, có rất nhiều tăng nhân mang kinh điển nguyên thủy và luận học của Nhất Thiết Hữu Bộ từ nước Kế Tân truyền vào Trung Thổ, điển hình là ngài Tăng Già Ðề Bà mang kinh Tăng Nhất A Hàm, kinh Trung A Hàm, luận A Tỳ Ðàm Bát Kiền Ðộ, luận A Tỳ Ðàm Tâm. Ngài Ðàm Ma Da Xá mang luận Xá Lợi Phất A Tỳ Ðàm. Ngoài ra, ngài Phất Nhã Ða La và Ti Ma La Xoa mang quyển Thập Tụng Luật. Ngài Phật Ðà Gia Xá mang Tứ Phần Luật và kinh Trường A Hàm. Khoảng giữa năm 400, ngài Phật Ðà Bạt Ðà La truyền dịch kinh Hoa Nghiêm và kinh Tân Vô Lượng Thọ. Năm 411, ngài Ðàm Vô Sấm truyền dịch kinh Ðại Bát Niết Bàn và các bộ kinh đại thừa khác. Do đó, có thể xét đoán là thời gian ngài Cưu Ma La Thập sang nước Kế Tân, kinh điển tiểu thừa và kinh điển tân đại thừa đã được lưu bố rộng rãi.)

Nơi đó, có một danh tăng cao đức là Bàn Ðầu Ðạt Ða (Bandhudatta), vốn là em của vua nước Kế Tân, học vấn rộng sâu, tâm lượng bao dung rộng rãi, tài trí bác học, thật hiếm có trong đương thời. Pháp sư Bàn Ðầu Ðạt Ða vốn là vị tổ thứ bốn mươi chín tiếp nối theo truyền thống của thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ. Ðối với ba tạng kinh luật luận và chín bộ, đều thông suốt liễu đạt tường tận. Từ sáng đến trưa, tay viết cả ngàn câu kệ. Từ trưa đến tối, cũng có thể học thuộc cả ngàn bài kệ. Thanh danh vang lừng khắp các vương quốc ở Tây Vực. Người người đều tôn xưng là bậc đại học giả.

Khi đến nước Kế Tân, ngài Cưu Ma La Thập bèn lễ bái tín phụng, và theo pháp sư Bàn Ðầu Ðạt Ða học tập kinh kệ như Tạp Tạng, Trung A Hàm, Trường A Hàm, v.v... Ngài Cưu Ma La Thập cũng có thể học thuộc bốn trăm ngàn chữ trong một ngày. Pháp sư Bàn Ðầu Ðạt Ða thường khen ngợi thiên tư thần tuấn của ngài Cuu Ma La Thập, nên thanh danh chóng sớm truyền đến tai quốc vương nước Kế Tân. Do đó, quốc vương nước Kế Tân thỉnh ngài Cưu Ma La Thập vào cung, rồi chiêu tập các luận sư ngoại đạo, để cùng nhau tranh tài biện luận. Thấy ngài Cưu Ma La Thập tuổi nhỏ, nên lúc chưa bắt đầu tranh luận, các luận sư ngoại đạo khinh dễ xem thường, hiển lộ qua những lời lẽ vấn đáp. Ngài không lộ chút sợ sệt. Mỗi lần đưa ra câu nào, đều khiến đối phương không thể tìm được phương cách nào để bài bác. Hồi sau, luận sư ngoại đạo đều tâm phục khẩu phục. Qua buổi tranh luận đó, quốc vương nước Kế Tân lại càng hậu đãi Ngài, nên cúng dường thâm hậu, và sai năm đại tăng cùng mười sa di đến chùa phục dịch hầu hạ Ngài.

Năm mười hai tuổi, bà mẹ dẫn Ngài trở về nước Quy Từ. Trên đường, họ đi ngang qua núi Bắc Sơn ở nước Ðại Nhục Chi, gặp một vị A La Hán. Vừa thấy ngài Cưu Ma La Thập, vị A La Hán kia bèn biết đây chẳng phải là phàm nhân, nên bảo với bà mẹ:

- Bà nên bảo hộ kỹ càng chú tiểu sa di này. Nếu đến năm ba mươi lăm tuổi mà không phá giới, thì có thể hưng long đại pháp, cứu độ vô số chúng sanh, đồng với tổ Ưu Ba Cúc Ða không khác. Ngược lại, sẽ không thành tựu được gì, mà chỉ là một pháp sư tài trí thù thắng bình thường.

Lần nọ, đến nước Sa Lặc (Kashgar), thấy một bình bát của Phật, Ngài bèn để lên đầu, rồi khởi tâm suy nghĩ:

- Quái lạ! Bình bát này hình thể thật to, mà để lên đầu lại không cảm thấy nặng?

Niệm đó vừa khởi lên, thì Ngài cảm thấy bình bát nặng trĩu vô cùng. Lúc bà mẹ hỏi nguyên do, Ngài bèn đáp:

- Chỉ vì con khởi tâm phân biệt bình bát nặng nhẹ.

(Trong quyển Tây Vức Ký, ngài Ðạo An viết:" Nước Sa Lặc có tượng Phật Mộc Dục, làm bằng gỗ chiên đàn, từ phương tây đem đến, để nơi cung điện mà cúng dường."

Y cứ vào đây thì thấy rằng giữa thế kỷ thứ tư, Phật giáo đã được truyền vào nước Sa Lặc, nên quốc vương mới có tượng Phật Mộc Dục để cúng dường tại hoàng cung. Ðầu thế kỷ thứ năm, sa môn Trí Mãnh đã từng sang đó để lễ bái Thánh tích. Quyển 'Xuất Tam Tạng Ký Tập' thứ mười lăm ghi:" Lại nữa, tại nước đó, thấy bình bát của Phật màu sắc xanh tím, bốn bề sáng lạn. Thầy Trí Mãnh dâng hoa cúng dường, đảnh lễ phát nguyện rằng nếu bình bát có linh ứng, thì có thể nặng và có thể nhẹ. Phát nguyện xong, thầy Trí Mãnh bèn nâng bình bát lên, rồi từ từ cảm thấy bình bát nặng trĩu, không thể cầm nổi, nên phải đặt xuống. Ðang lúc đặt xuống thì thầy Trí Mãnh cảm thấy bình bát lại nhẹ đi."

Tín ngưỡng tôn sùng bình bát của Phật được lưu truyền rộng rãi từ Thiên Trúc cho đến các nước ở Tây Vức. Thế nên, chính tự thân ngài Cưu Ma La Thập thể nghiệm được sự linh ứng về bình bát của Phật.)

Năm đầu lưu trú tại nước Sa Lặc, ngài Cưu Ma La Thập học thông luận A Tỳ Ðàm, luận Lục Túc, kinh Tăng Nhất A Hàm, và hiểu rõ thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ.

Nước Sa Lặc có một vị tam tạng pháp sư, tên là Hỷ Kiến, nghe qua thanh danh của ngài Cưu Ma La Thập, bèn bảo quốc vương nước đó:

- Xin quốc vương chớ khinh thường chú tiểu sa di đó, mà hãy cung thỉnh vào triều giảng kinh thuyết pháp, thì sẽ được hai việc lành: Thứ nhất, chư sa môn của nước ta, nghe những lời thuyết pháp của vị sa di đó, thì sẽ tự cảm thấy không bì kịp, nên nhất định sanh tâm hổ thẹn, mà nỗ lực tu hành. Thứ hai, quốc vương nước Quy Từ nhất định sẽ hiểu rõ là nước chúng ta hậu đãi tôn trọng Cưu Ma La Thập cũng là biểu hiện sự tôn trọng nước Quy Từ. Nếu được như thế, thì hai nước sẽ hòa thuận bang giao.

Nghe lời của pháp sư Hỷ Kiến, quốc vương nước Sa Lặc đáp ứng sự yêu cầu, nên thiết lập đại pháp hội, lễ thỉnh ngài Cưu Ma La Thập thăng tòa giảng kinh Chuyển Pháp Luân. Quốc vương nước Quy Từ nghe tin này, bèn sai sứ đem lễ vật sang hậu tạ, khiến tình giao hảo của hai nước càng thêm khắng khít.

Tuy là bậc thần đồng, nhưng Ngài không lấy đó làm tự mãn, mà thường chú trọng vào việc nghiên cứu tam tạng nội điển, tức kinh điển nguyên thủy Phật giáo và học luận thuyết Nhiết Thiết Hữu Bộ, rồi tiến thêm một bước nữa là nghiên cứu ngoại tích luận lý cổ điển như luận Vệ Ðà Hàm Ða, Tứ Vệ Ðiển, luận Ngũ Minh (thanh minh, công xảo minh, y phương minh, nhân minh, nội minh), âm dương toán số, y thuật, thiên văn chiêm bốc, đoán việc kiết hung.

Tại Sa Lặc, ngài Cưu Ma La Thập theo sa môn Tu Lợi Da Tô Ma (Surya-Soma) học pháp đại thừa. Quyển 'Bách Luận Tự Sao' viết:" Sa môn Tu Lợi Da Tô Ma vốn là hoàng tử nước Sa Lặc, xuất gia tu học theo pháp đại thừa. Bàn về phương diện học vấn, lập trường của giáo lý tiểu thừa và đại thừa hoàn toàn khác hẳn. Ngài Cưu Ma La Thập vốn tu theo giáo tiểu thừa, nhưng từ lúc gặp được sa môn Tu Lợi Da Tô Ma và thường qua lại thân mật, thì tầm nhìn về pháp đại thừa được khai mở. Ban đầu, để giáo hóa, sa môn Tu Lợi Da Tô Ma đến trước cửa phòng của ngài Cưu Ma La Thập mà cố ý đọc to kinh A Nậu Ðạt, với ý nghĩa tất cả đều là không. Xa xa vọng nghe được lời kinh này, nên sáng hôm sau ngài Cưu Ma La Thập bèn hỏi sa môn Tu Lợi Da Tô Ma:

- Hôm qua Thầy đọc kinh gì vậy?

Sa môn Tu Lợi Da Tô Ma bảo:

- Ðó là kinh đại thừa.

- Nghĩa lý thế nào?

- Bàn về tất cả đều không.

- Mọi việc trước mắt đều là thật có, vậy sao gọi là không?

- Nếu mắt mà xem thấy có vật, thì xin hỏi chứ có vật nào tồn tại dài lâu?

- Còn lại tính chất của cái thấy.

- Nếu cái thấy là tánh chất tồn tại, thì sao không tự thấy con mắt của mình? Lại nữa, con mắt do một cực vi trần hay nhiều cực vi trần hợp thành? Nếu bảo do một cực vi trần hợp thành, thì cái thấy cũng là một cực vi trần. Nếu không thể thấy được một cực vi trần thì đương nhiên là không thể thấy được nhiều cực vi trần. Ngoài ra, Nếu cực vi trần có hình tướng thì nó phải đầy đủ tánh chất rộng lớn hay nhỏ hẹp. Song, nếu nó là rộng lớn thì không thể là cực vi trần được. Không đầy đủ tánh chất rộng lớn nhỏ hẹp thì làm sao gọi là có hình tướng được?

Ngay lời này, ngài Cưu Ma La Thập không thể đối đáp được, nên lặng thinh. Dùng lý luận của thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ, ngài Cưu Ma La Thập cho rằng nhãn căn là có thật pháp. Sa môn Tu Lợi Da Tô Ma đáp rằng nhãn căn vốn do duyên hợp mà thành, chẳng phải thật có. Ðây là sự tranh luận giữa thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ và Không Quán. Ngài Cưu Ma La Thập từ từ liễu ngộ lý lẽ pháp đại thừa, nên tự than:

- Xưa kia học theo pháp tiểu thừa, thường chẳng biết có vàng bên trong, mà chỉ cho đồng thiếc là quý.

Nhờ đó, ngài Cưu Ma La Thập bắt đầu theo sa môn Tu Lợi Da Tô Ma học kinh luận đại thừa như Trung Luận, Bách Luận, Thập Nhị Môn Luận, v.v... Từ đó, ngài Cưu Ma La Thập hoàn toàn chuyển hướng về pháp đại thừa, và xem đó là sự trọng yếu của việc tu hành.

Thời gian sau, Ngài theo người mẹ đến rặng núi Thiên Sơn của nước Ôn Túc (Ush), nằm về phía bắc của nước Quy Từ. Tại nước đó, có một đạo sĩ biện tài vô ngại, danh vang lừng khắp các nước lân cận. Lần nọ, ông ta đánh trống, tuyên bố với mọi người:

- Hễ có ai biện luận thắng được Ta, thì Ta sẽ cắt đầu để xin tạ tội.

Nghe lời này, Ngài bèn đến biện luận với ông ta. Kết quả đạo sĩ đành tự nhận là bị khuất phục, nên lễ bái quy y Ngài. Từ đó, thanh danh của Ngài vang lừng khắp các quốc vương ở Tây Vực, khiến vua Quy Từ phải tự thân đến nước Ôn Túc cung thỉnh Ngài trở về bổn quốc. Từ đó, Ngài thường đăng đàn giảng kinh. Các bậc thạc học uyên bác bốn phương đều chiêm tâm ngưỡng phục.

A Kiệt Da Mạt Ðế, tức công chúa nước Quy Từ, xuất gia làm ni, tụng đọc kinh điển, thâm đạt thiền quán, chứng nhị quả A La Hán, rồi vân tập đại chúng, cung thỉnh Ngài giảng giải nghĩa thâm áo của kinh Phương Quảng. Do đó, Ngài đăng tòa thuyết pháp, xiển dương lý 'tất cả đều không có ngã thể' và ấm giới 'chỉ là danh giả, chẳng thật'. Ðại chúng nghe những lời này đều vui mừng tán thán.

Năm hai mươi tuổi, ngài Cưu Ma La Thập theo sa môn Ti Ma La Xoa (Vimaraksa), một vị kiệt xuất về luật học, thọ đại giới cụ túc tại hoàng cung. Sa môn Ti Ma La Xoa vốn là người nước Kế Tân, nhưng lại qua nước Quy Từ để hoằng dương Luật Tạng, nên bốn phương học giả đều canh cánh đua nhau theo học. Ngài Cưu Ma La Thập theo sa môn Ti Ma La Xoa mà học Thập Tụng Luật.

Sau này, mẹ ngài nói với vua Bạch Thống của nước Quy Từ:

- Quốc gia sắp bị suy vong. Tôi phải rời chỗ này.

Bà lại hỏi ngài Cưu Ma La Thập:

- Kinh Phương Ðẳng cùng các kinh điển đại thừa, phải nên truyền sang Ðông Ðộ, mà duy chỉ nương một mình con! Song, đối với con thì không đạt được lợi ích gì, vậy tính như thế nào?

Ngài thưa:

- Ðạo Bồ Tát là làm lợi ích cho tha nhân, phải quên đi chính mình. Ðạo pháp nếu được lưu truyền, khiến người người lãnh hội khai ngộ, thì dẫu tự thân có thọ khổ dầu sôi lửa bỏng, vẫn không hối tiếc.

Khi đến Thiên Trúc, bà ta lại chứng được tam quả A La Hán (tức quả A Na Hàm).

Lần nọ, cư trú tại chùa Tân Tự ở nước Quy Từ, Ngài định mở kinh Phóng Quang Bát Nhã ra đọc tụng, thì ác ma đến quấy phá, khiến kinh văn đều biến thành tờ giấy trắng. Thấy mình bị ác ma quấy nhiễu, Ngài vẫn kiên quyết không chuyển tâm, cứ việc tụng đọc, nên cuối cùng ác ma phải thối lui, và kinh văn hiện ra trở lại. Lần khác, đang đọc kinh điển đại thừa tại đại tùng lâm Tước Lê, Ngài chợt nghe trong chùa có tiếng bảo:

- Ngài là một vị đại trí huệ, vậy sao còn đọc tụng kinh thư?

Ngài bảo:

- Nầy con tiểu quỷ! Hãy mau đi chỗ khác. Tâm Ta kiên cố như đại địa, chẳng có gì làm chuyển động.

Do nhờ vận dụng trí quán bát nhã mà lập trường tu hành của Ngài không thối chuyển dẫu gặp ma sự.

Hai năm kế, Ngài vẫn lưu trú tại nước Quy Từ để tụng đọc kinh điển đại thừa, cùng nghiên cứu giáo nghĩa thâm sâu áo diệu. Vua nước Quy Từ thiết lập tòa sư tử, trải lụa kim tuyến lên tòa ngồi, rồi cung thỉnh Ngài đăng đàn thuyết pháp. Ngài bảo:

- Thầy của Ta chưa lãnh hội yếu chỉ kinh điển đại thừa. Ta muốn tự thân qua đó để thuyết pháp giáo nghĩa đại thừa, nên không thể lưu lại ở đây lâu đuợc.

Song, vì nghe thanh danh của ngài Cưu Ma La Thập, và biết vua nước Quy Từ tín phụng Phật pháp, nên sa môn Bàn Ðầu Ðạt Ma không quản đường xa vạn dặm đến nước Quy Từ. Vua nước Quy Từ hỏi sa môn Bàn Ðầu Ðạt Ma:

- Tại sao Ðại Sư lại lặn lội đến vương quốc của Trẫm?

Sa môn Bàn Ðầu Ðạt Ma đáp:

- Có hai lý do: Thứ nhất, Tôi nghe rằng đệ tử của mình là Cưu Ma La Thập đã đại triệt ngộ. Thứ hai, vì nghe rằng Ðại Vương hộ trì hoằng dương Phật pháp, nên tôi không quản đường xá xa xôi mà đến quý quốc.

Nghe thầy bổn sư đến, rất hợp với ý nguyện, nên tâm Ngài vui mừng vô ngần. Biết rằng trước kia thầy mình không tin kinh Ðức Nữ Vấn, nên Ngài bèn giảng lại bộ kinh này, để xiển dương đạo lý nhân duyên đều giả không cho thầy bổn sư nghe. Vị thầy bổn sư giáo tiểu thừa, không biết do duyên cớ gì mà người đệ tử lại tín phụng đại thừa không quán. Do đó, nghe ngài Cưu Ma La Thập giảng xong, vị thầy bổn sư hỏi:

- Nơi giáo nghĩa đại thừa, ngươi thể nghiệm được việc gì, mà lại tôn sùng như thế?

Ngài nói:

- Nghĩa lý đại thừa thâm sâu, thuyết minh đạo lý tất cả đều là không. Giáo nghĩa tiểu thừa, vì thường bị kẹt trên danh tướng, nên phần nhiều vẫn còn bị hạn cuộc.

- Ngươi bảo tất cả đều là không. Luận điệu này thật đáng sợ! Còn xả bỏ vật chi thì còn có tồn tại, sao lại thích nơi không không. Ví như kẻ si cuồng muốn cầu thợ, dệt cho một tấm lục mỏng. Dệt xong, người thợ bèn đưa cho gã xem. Gã bảo rằng vải vẫn còn thô, chưa được nhu nhuyến, vì vẫn còn thấy hình tướng. Người thợ dệt tức giận, chỉ tay lên trời bảo rằng đó là tấm vải nhu nhuyến nhất. Kẻ si cuồng hỏi rằng tại sao không thấy được. Thợ dệt bèn đáp là vì quá nhu nhuyến nên không thể thấy. Nghe lời này, gã si cuồng vui mừng cảm phục. Ngươi nói không không, cũng giống như thế.

Ngài vẫn kiên quyết, dẫn trích kinh điển, không từ mệt nhọc mà giải thích cho vị thầy bổn sư nghe. Suốt một tháng tranh luận về giáo nghĩa đại thừa, cuối cùng vị thầy bổn sư thâm hiểu triệt ngộ những lời giảng dạy của Ngài. Do đó, sa môn Bàn Ðầu Ðạt Ða trịnh trọng đảnh lễ ngài Cưu Ma La thập mà bảo:

- Ta là thầy giáo nghĩa tiểu thừa của ngươi. Ngươi là thầy giáo nghĩa đại thừa của Ta.

Các quốc vương ở Tây Vực, vì bái phục tôn sùng, nên mỗi lần Ngài thăng tòa thuyết pháp, họ đều quỳ ngay bên cạnh tòa giảng.

Ðương thời, nước Quy Từ là nơi cứ điểm của Phật giáo tiểu thừa. Hai sa môn người Tàu là Tăng Thống và Ðàm Sung cầu bản giới luật tỳ kheo ny từ sa môn Phật Ðồ Thiệt Di, một vị cao tăng trưởng lão, thống lý bốn đại tùng lâm như Vân Mộ Lam, Tân Tự, Tân Lam, Tăng Già Lam; tổng cộng có hơn ba trăm năm mươi tăng sĩ. Tất cả giới học giả kinh A Hàm đều y theo trưởng lão Phật Ðồ Thiệt Di mà tu học. Ðương thời, tại đó còn có các đại tùng lâm lớn như: Ðạt Mộ Lam (có 170 tăng sĩ), Bắc Thượng Chí Lê Lam (có 50 tăng sĩ), Kiếm Mộ Vương Tân Lam (có 60 tăng sĩ), Thấp Túc Vương Lam (có 70 tăng sĩ). Quốc vương cũng tự cho xây đại tùng lâm Tân Tăng Lam, có khoảng chín mươi tăng sĩ. Ðây là nơi mà ngài Cưu Ma La Thập thường trú ngụ. Ngoài ra, còn có các ni viện như A Lệ Lam (180 ni sư), Luân Nhã Thiên Lam (50 ni sư), A Lệ Bạt Lam (30 ni sư). Các tỳ kheo ny ở ba ni viện này đa số đều là các phụ nữ dòng vương thất đến tu hành, và họ đều thọ giới từ trưởng lão Phật Ðồ Thiệt Di. Quy chế tu hành trong các ni viện rất nghiêm cẩn, khắc khổ. Tỳ kheo ny phải giữ hết năm trăm giới. Mỗi ba tháng các tỳ kheo ny đều phải thay đổi nơi cư trú. Khi ra ngoài phải có ba người đồng hành. Nếu ra ngoài mà không có ai đồng hành thì sẽ bị đuổi ra khỏi ni viện.

Ngài Phật Ðồ Trừng cũng đã từng nước này tu học. Sa môn Bạch Thi Lê Mật Ða cũng đem kinh điển mật giáo từ nơi đây sang Trung Quốc.

Xưa kia, ngài Cưu Ma La Thập cũng vốn là đệ tử của sa môn Phật Ðồ Thiệt Di. Hậu bán thế kỷ thứ tư, kinh điển đại thừa như kinh Pháp Hoa, kinh Duy Ma Cật, kinh A Di Ðà, cùng giáo lý Không Quán phát triển mau chóng mạnh mẽ do công của ngài Cưu Ma La Thập truyền vào, sau khi đã tu học tại nước Sa Lặc. Ðược nghe những lời giảng giải của ngài Cưu Ma La Thập, sa môn Phật Ðồ Thiệt Di bèn tin nhận nghĩa lý đại thừa. Thế nên, giữa ngài Cưu Ma La Thập và sa môn Phật Ðồ Thiệt Di cũng có mối quan hệ 'vừa là thầy, và vừa là học trò'.

Sau khi Ngài đến Cô Tạng thì giáo nghĩa đại thừa từ từ yếu dần, vì không có ai xiển dương, nên giáo nghĩa tiểu thừa chiếm lại ưu thế. Pháp sư Ðạt Ma Bạt Ðà (dịch là Pháp Hiền), người nước Quy Từ, thiên tánh thông minh, thông đạt hết ba tạng kinh điển, biết rất nhiều ngôn ngữ ngoại quốc, nhưng lại cho rằng pháp tiểu thừa là tối cực, nên tự sanh ngã mạn, phỉ báng kinh điển đại thừa. Bấy giờ sa môn Tu Lợi Da Tô Ma (vị thầy dạy giáo đại thừa của ngài Cưu Ma La Thập), từ nước Sa Lặc sang đến Quy Từ diễn giảng kinh Pháp Hoa, và chiết phục được Ðạt Ma Bạt Ðà, quy hướng về đại thừa. Sau này, vì thiếu danh tăng đại thừa, mà chư sa môn tiểu thừa giới luật tinh nghiêm, từ nước Kế Tân thường qua nước Quy Từ truyền pháp, nên dần dần toàn quốc đều kính phụng giáo tiểu thừa.

Chẳng bao lâu, thanh danh của ngài Cưu Ma La Thập truyền đến Trung Thổ.

Ðương thời, ở Trung Thổ, chính nhằm lúc ngũ Hồ mười sáu nước, và Tiền Tần Phù Kiên có oai thế hừng thạnh. Trong giới Phật giáo quốc nội, Phù Kiên đã từng nghe qua thanh danh của ngài Ðạo An tại Tương Dương, nên sau này thỉnh mời về Trường An hoằng pháp.

Niên hiệu Kiến Nguyên thứ mười ba (377), vào tháng giêng, có quan thái sử quán sát tinh tượng, dâng tấu bẩm với Phù Kiên:

- Tại nước ngoài, tinh tú hiện nơi vùng hoang dã, chắc có vị đại đức trí huệ, và trong tương lai sẽ qua Trung Thổ, phò trợ quốc gia.

Phù Kiên bảo:

- Ta nghe rằng tại Tây Vực có ngài Cưu Ma La Thập. Như thế, chính là vị đó.

Lần nọ, vua nước Tiền Ðô là Xa Sư và em của vua nước Quy Từ là Hưu Mật Ðà, đồng vào triều tâu với Phù Kiên:

- Tây Vực có nhiều trân châu bảo quý, thỉnh cầu Ðại Vương xuất binh bình định, khiến họ thần phục.

Theo quyển 'Xuất Tam Tạng Ký Tập' thứ tám, trong bài tựa về kinh Ma Ha Bát Nhã Bàn La Mật, ngài Ðạo An viết rằng vua Tiền Ðô là Xa Sư đến Trung Thổ vào tháng giêng, niên hiệu Kiến Nguyên thứ mười tám (382), và dẫn theo một vị quốc sư tên là Cưu Ma La Bạt Ðề (Kuma rabhadra), cùng triều cống một bộ Ðại Phẩm có bốn trăm hai mươi ngàn lời, và hai mươi ngàn bài kệ.

Nghe theo lời của hai vị vương gia ngoại quốc, vào tháng chín năm 382, Phù Kiên phái kiêu tướng Lữ Quang thống lãnh bảy mươi ngàn quân sang xâm chiếm Tây Vực. Lúc Lữ Quang sắp xuất chinh từ Trường An, Phù Kiên tiễn Lữ Quang tại cung Kiến Chương, bảo:

- Ðế vương thuận thiên mạng mà trị quốc, nên phải lấy lòng thương dân làm gốc. Sao lại có ý đồ tham vọng mà chinh phạt lân bang? Trẫm lấy vương đạo làm yếu chỉ, nên vì ngưỡng một vị đạo nhân mà cho quân chinh phạt. Trẫm nghe rằng tại Tây Vực có kỳ nhân Cưu Ma La Thập, năng thâm giải pháp tướng, hiểu rõ âm duơng, tinh tú, khiến hậu học giả đều tôn sùng. Trẫm tự nghĩ đó là bậc hiền triết quý báu của quốc gia. Nếu phá được nước Quy Từ, hãy lập tức đem Cưu Ma La Thập trở về ngay.

Trước khi quân của Lữ Quang đến nước Quy Từ, ngài Cưu Ma La Thập bảo vua Bạch Thống:

- Vận nước đã đến hồi suy vi. Chẳng bao lâu sẽ có địch nhân từ phương đông đến. Xin Ðại Vương hãy cung kính đón tiếp họ, chớ nên giao tranh.

Vua Bạch Thống không chịu nghe lời Ngài, cứ dẫn quân ra nghinh chiến với Lữ Quang. Ðến tháng chạp năm 383, Lữ Quang dẫn quân bao vây cung thành Quy Từ, nhưng chưa tiến vào. Vào tháng năm năm 384, vua Bạch Thống nhân cơ hội đó, cho người đi cầu cứu viện binh từ các nước lân cận như Sa Lặc, Ôn Túc, v.v... Song, vào tháng bảy năm 384, Lữ Quang xua quân vào thành, sát hại hàng vạn sanh linh. Vua Bạch Thống cũng bị tử trận mà chết. Quân Lữ Quang vào thành, thấy cung thành có ba tầng tròn và rộng như thành Trường An. Trong thành có cả ngàn tháp miếu. Cung thất của vua Bạch Thống tráng lệ nguy nga như cung điện chư thiên. Tiến chiếm thành xong, Lữ Quang lập em của vua Bạch Thống là Bạch Chấn lên ngôi. Thấy vị đạo sĩ mà Phù Kiên tôn sùng, tuổi tác còn trẻ, Lữ Quang vì không phải là Phật tử, chỉ có tánh thô lỗ hung tàn, nên cưỡng ép ngài Cưu Ma La Thập uống rượu, rồi bức bách lấy vương nữ trong cung, nhưng Ngài cự tuyệt. Thấy vậy, Lữ Quang bảo:

- Người có đức hạnh, không thể vượt qua cha mình. Cha của Hòa Thượng đã từng lấy vợ, vậy sao Hòa Thượng kiên trì không muốn lấy vợ?

Nói xong, Lữ Quang lại ép uống rượu, rồi nhốt Ngài vào trong mật thất với vương nữ. Sau đó, Lữ Quang lại bắt Ngài cỡi trâu và cỡi ngựa chứng, cùng dùng bao cách để làm nhục. Song, Ngài cố nhẫn nhịn những sự hành hạ nhục mạ cay đắng, mà không khởi chút oán giận hay sợ sệt. Cuối cùng, sự kiên trì giữ giới hạnh cùng nhẫn thọ bao cực hình của Ngài, khiến cho Lữ Quang phải cảm động ân hận, không còn gia hình thô bạo nữa.

Bình định xong nước Quy Từ, Lữ Quang không nghe tin tức gì về quốc nội, bèn khởi tâm nghi ngờ là trong nước có chiến loạn, nên lưu trú lại đó. Tuy vẫn còn giam giữ, nhưng dần dần Lữ Quang tín nhiệm Ngài. Tháng giêng năm 385, Lữ Quang triệu gia thần vào cung rồi hỏi coi có nên trở về bổn quốc hay không. Vì người muốn trở về chiếm đa số, nên Lữ Quang quyết định trở về đất Tàu. Tháng ba năm 385, Lữ Quang dẫn hơn hai mươi ngàn quân, cùng cướp bao gái đẹp, vàng bạc châu báu, trân điểu dị thú, tuấn mã, v.v... trở về đất Tàu. Ðương thời, ngài Cưu Ma La Thập cũng bị bắt đi theo.

Từ miền sa mạc Tây Vực, đi về hướng đông, đường xá cheo leo nguy hiểm. Lần nọ, trên đường về, Lữ Quang dừng quân nghỉ ngơi tại dưới một chân núi. Khi ấy, Ngài bảo Lữ Quang:

- Không thể dừng lại nơi đây, vì rất bất lợi, mà phải dời quân lên phía trên núi.

Lữ Quang chẳng màng nghe lời của Ngài. Tối đến, mưa to ào ạt, nước trên núi tuôn xuống tràn ngập cả mấy mươi thước, khiến binh sĩ chết đuối cả ngàn người. Từ đó, Lữ Quang mới biết tài tiên tri của Ngài. Ngài lại bảo:

- Ðây là chỗ vong mạng, hung xấu, chớ nên nán lại lâu, mà phải mau kíp trở về nước. Trên đường quyết sẽ gặp vùng đất phước.

Qua tai nạn kinh hồn, Lữ Quang chẳng dám không nghe lời của Ngài. Lữ Quang vừa đến Lương Châu, thì nghe tin Phù Kiên đã bị Dao Trường sát hại, nên khiến ba quân mang áo trắng, để tang ba tháng. Lữ Quang lại lập tức xua quân tiến chiếm Lương Châu, rồi tự xưng là hoàng đế Văn Chiêu, dựng nên nhà Hậu Lương, niên hiệu là Kiến Nguyên Thái An.

Tháng giêng năm 387, một trận cuồng phong nổi lên tại Cô Tạng. Ngài Cưu Ma La Thập lại bảo Lữ Quang:

- Ðây là ngọn gió chẳng lành, chắc sẽ có mưu phản, nhưng sau sẽ tự nhiên bình định được.

Chẳng bao lâu, Lương Khiêm, Bành Hoàng liên tiếp phản loạn, nhưng Lữ Quang đều dẹp được. Bành Hoàng vốn là thái thú ở Trương Dịch, và là võ tướng theo Lữ Quang chiếm đánh Quy Từ. Năm 388, vào tháng ba, thái thú Võ Oai là Ðỗ Tấn bị Lữ Quang giết hại. Kế đến, Lữ Quang đem các trung thần theo chinh phạt Tây Vực thuở xưa, ra chém hết.

Vào tháng hai năm 396, Lữ Quang chính thức lên ngôi, tự xưng là Thiên Vương, hành đại xá, đổi niên hiệu là Lân Gia, lập Thạch Thị làm hoàng hậu và con là Lữ Thiệu làm thái tử. Nghiễm nhiên có đầy đủ thể chế của một quốc gia độc lập. Năm 397, Lữ Quang lại đổi niên hiệu là Long Phi.

Ðương thời, Nam Thành và Mông Tốn cùng suy tôn Ðoạn Nghiệp làm vua tại Trường Dịch, lập nước Bắc Lương (397-439).

Sau này, Lữ Soạn đem năm mưoi ngàn quân đánh nước Bắc Lương. Người đương thời đều bảo rằng quân của Ðoạn Nghiệp vốn là quân ô hợp. Lữ Soạn nhất định sẽ thắng. Lữ Quang nhờ ngài Cưu Ma La Thập xem coi quân tình. Ngài bảo:

- Xem lần xuất binh kỳ này, chắc sẽ không thắng lợi.

Thật thế, quân của Lữ Soạn bị đại bại tại Hợp Ly, nên đành kéo quân về.

Lữ Quang có một vị quan trung thư giám là Trương Tư, vốn là người tài ba, tánh tình hòa nhã, có kiến thức rộng. Lần nọ, ông ta bị bịnh nặng, nên Lữ Quang bèn mời các vị danh y đến chữa trị. Một người ngoại quốc, tên là La Xoa, tự bảo rằng sẽ chữa được bịnh. Lữ Quang nghe thế, vui mừng ban thưởng phẩm vật. Biết La Xoa lừa bịp để lấy tiền, Ngài bảo Trương Tư:

- La Xoa chẳng có tài y thuật gì, chỉ lừa bịp lấy tiền. Mạng người ẩn tàng không rõ. Ðể Ta xem chiêm bốc coi mạng của ông như thế nào!

Nói xong, Ngài lấy dây tơ năm màu kết lại, đốt thành tro rồi bỏ xuống nước, bảo:

- Nếu tro nổi lên trên mặt nước, rồi kết lại thành hình dây tơ như khi trước, thì bịnh sẽ không lành!

Một lát sau, tro nổi lên, tụ lại thành hình dây tơ như trước. Như lời Ngài tiên tri, La Xoa không có cách gì để trị bịnh, nên trong vài ngày, Trương Tư qua đời.

Sau này, Lữ Quang bị bịnh mà chết. Thái tử Lữ Chiêu lên ngôi, nhưng là người ngu si. Lữ Soạn bèn giết Lữ Chiêu để lên ngôi, đổi niên hiệu là Hàm Ninh. Lữ Soạn tánh tình thô bạo, không thích đọc thư sách mà chỉ ham tửu sắc, lại hoang dâm vô độ, và thường thích đi săn bắn. Năm 399, trong nước có nhiều điềm lạ xuất hiện: Một con heo sanh ra heo con ba đầu; một con rồng từ giếng bay lên, nằm trước cung điện. Lữ Soạn cho đó là điềm lành, bèn gọi nơi đó là điện Long Phi. Kế đến, một con rồng đen từ cửa Cửu Cung ở Ðương Dương bay lên, nên Lữ Soạn cho đổi Cửu Cung thành Cửu Long Hưng. Thấy những hiện tượng kỳ quái này, Ngài bảo Lữ Soạn:

- Gần đây rồng liên tiếp xuất hiện, heo yêu biểu hiện điềm kỳ dị. Rồng vốn thuộc khí âm, xuất nhập có thời tiết. Như nay đã thường xuất hiện, đây là điềm tai họa sẽ đến, chắc sẽ có mưu phản. Ðiện hạ hãy tự khắc kỷ tu đức, để xoay chuyển tâm trời, thì mới tránh khỏi tai họa.

Lữ Soạn không chịu nghe lời khuyên răn của Ngài. Lần nọ, đang lúc cùng với Ngài đánh cờ, Lữ Soạn ăn được một con cờ, bèn cuời bảo:

- Chém được đầu của Hồ nô! (người Tàu thường gọi người phương bắc hay Tây Vực là Hồ tộc).

Ngài bảo:

- Ðầu của Hồ nô chém chẳng được, chỉ e rằng Hồ nô sẽ chém đầu người khác!

Ngài nói câu này có thâm ý, mà Lữ Soạn lại không hiểu. Nguyên vì Lữ Quang có người em là Lữ Bảo. Lữ Bảo có con là Lữ Siêu, mà tên lót của Lữ Siêu là Hồ Nô. Sau này, Lữ Siêu giết Lữ Soạn, rồi tôn người anh là Lữ Long lên làm vua. Khi đó, người người mới biết lời dự đoán của Ngài.

Tại Lương Kinh, Ngài làm cố vấn cho Lữ Quang và Lữ Soạn. Ðối với năng lực thần dị, âm dương, bói toán, ngài Cưu Ma La Thập đều đồng có đủ tài như ngài Phật Ðồ Trừng. Song, cha con Lữ Quang và Lữ Soạn không có tâm hoằng dương Phật pháp, nên Ngài không có cách chi để hành đạo.

Sau khi Lữ Thiệu mất, vợ là Trương Thị xuất gia làm ni. Vì Lữ Long khởi tâm tà muốn cưỡng bức, Trương Thị kiên quyết không chịu bị nhục, bèn nhảy từ lầu cao xuống đất mà tự sát, mà miệng vẫn còn tụng kinh điển. Việc này hiển thị rõ giáo đoàn Phật giáo vào đương thời có tồn tại.

Ðương thời, tại Bắc Lương, Mông Tốn lên ngôi, và rất sùng kính Phật pháp, nên Phật giáo rất được thạnh hành. Năm 421, nhân nhà Tây Lương bị diệt vong, Mông Tốn xua quân đến tiến chiếm, tới tận Ðôn Hoàng.

Theo quyển 'Ngụy Thư Thích Lão Chí', từ đời Trương Quỹ (256-314), người Lương Châu đời đời tín phụng Phật pháp. Lương Châu vốn là con đường giao thông trọng yếu, nên rất nhiều vị sa môn từ Thiên Trúc hoặc các nước Tây Vực sang Trung Thổ, phải đi ngang qua đó. Nơi ấy, hiển nhiên cũng là trục lộ giao thông của ngôn ngữ, tức là tiếng Thiên Trúc, tiếng Tàu, cùng các tiếng ở các nước tại vùng Trung Á đều được thạnh hành. Thế nên, các sa môn từ Thiên Trúc hay Tây Vực đến đều có thể học tiếng Tàu để phiên dịch kinh điển; điển hình là ngài Ðàm Vô Sấm ở đó ba năm để học tiếng Tàu, rồi phiên dịch kinh điển. Ngược lại, các sa môn người Tàu cũng có thể học ngôn ngữ Thiên Trúc hay Tây Vực trước khi qua đó để tu học. Thế nên, trong mười sáu năm bị cầm chân tại Lương Châu, ngài Cưu Ma La Thập dĩ nhiên là thông thạo tiếng Tàu, để chuẩn bị cho công cuộc phiên dịch kinh điển sau này.

Tại Trường An, ngưỡng mộ danh đức của Ngài, thầy Tăng Triệu (378-414), lặn lội đến nơi đó để học tập giáo nghĩa kinh điển.

Sau khi giết Phù Kiên, Dao Trường lên ngôi xưng đế tại Quan Trung. Nghe thanh danh của ngài Cưu Ma La Thập, nên Dao Trường mấy lần cầu thỉnh. Song, cha con Lữ Quang và Lữ Soạn thấy Ngài tài đức vẹn toàn, và e sợ Dao Trường mưu mô, nên không cho Ngài đến Trường An. Dao Trường mất, con là Dao Hưng lên kế vị.

Dao Hưng dùng đức mà trị dân, lại cực lực tôn sùng Tam Bảo. Ông thường lập các pháp hội cúng dường trai tăng, giảng kinh thuyết pháp, khiến đại pháp được hưng thạnh khắp nơi, nên cứ trong mười người là có hơn năm người mộ đạo xuất gia. Tại Trường An vào lúc đó có hơn năm ngàn vị sa môn. Tăng sĩ tọa thiền có khoảng một ngàn. Tại Vĩnh Quý Lý kiến lập tháp thờ Phật. Trong nội cung thiết lập đài Bát Nhã.

Năm 401, vào tháng năm, Dao Hưng sai Dao Thạc Ðức dẫn đại quân đánh Lữ Long. Ðến tháng chín năm đó, Lữ Long thần phục Hậu Tần. Niên hiệu Hoằng Thủy thứ ba (401), vào ngày hai mươi tháng chạp, ngài Cưu Ma La Thập được vua Dao Hưng nghinh đón đến Trường An. Vua Dao Hưng lấy lễ của một vị quốc sư mà hậu đãi Ngài, lại thường vui vẻ cùng Ngài đàm luận suốt ngày mà không ngừng.

Tháng giêng năm 402, tại Tây Minh Các và Tiêu Diêu Viên, ngài Cưu Ma La Thập khởi công phiên dịch kinh điển.

Phật giáo từ thời Tiền Hán, Hậu Hán, Ngụy, Tấn, kinh điển từ từ được phiên dịch rất nhiều. Song, các dịch giả như Chi Khiêm, Trúc Pháp Lan, v.v...thường dùng phương pháp 'Cách Nghĩa' (tức dùng các ngôn từ học thuật của đạo nho, đạo lão mà giải thích kinh điển Phật giáo) để phiên dịch kinh điển. Vì vậy văn nghĩa kinh điển không được rõ ràng.

Thấy việc này, vua Dao Hưng bèn cầu thỉnh ngài Cưu Ma La Thập phiên dịch kinh điển và nhuận sắc lại những bộ kinh đã được dịch. Ngài tụng thuộc rất nhiều kinh điển, lại đã từng nghiên cứu thật thấu triệt, và lại thông suốt tiếng Tàu, nên khiến cho công tác phiên dịch càng thuận lợi. Ngài xem qua những bộ kinh đã được dịch, phát hiện có rất nhiều chỗ sai lầm. Như đã bàn qua, các nhà dịch giả trước kia thường dùng quá nhiều danh từ thuật ngữ đạo nho, đạo giáo, nên làm mất đi ý chỉ căn bản của Phật pháp, lại cũng không tương ưng với nguyên bản chữ Phạn.

Nghe thanh danh của ngài Cưu Ma La Thập, các danh tăng khắp nơi đổ dồn về Trường An để học yếu chỉ Phật pháp cùng trợ giúp việc phiên dịch kinh điển, cả thảy hơn ba ngàn vị, như Tăng Triệu, Ðạo Sanh, Ðạo Dung, Tăng Duệ, Tăng Tuyển, Ðạo Lưu, v.v... Trong số đó có bốn vị danh tăng được gọi là Quan Trung Tứ Thánh như ngài Ðạo Sanh, Tăng Triệu, Ðạo Dung, Tăng Duệ. Các đệ tử của ngài Huệ Viễn như Huệ Quán, Huệ Ôn, v.v... cũng rời Lô Sơn mà đến Trường An để nghe Ngài thuyết pháp. Ðương thời, hai trung tâm Phật giáo quan trọng nhất là Trường An, nơi ngài Cưu Ma La Thập cư trú, và Lô Sơn trụ xứ của ngài Huệ Viễn. Hai ngài Cưu Ma La Thập và Huệ Viễn thường gởi thư đàm luận về lý lẽ Phật pháp với nhau.

Tại Tiêu Diêu Viên, Ngài phiên dịch được kinh Tọa Thiền Tam Muội, A Di Ðà, Hiền Thủ, Ðại Phẩm Bát Nhã, Ðại Trí Ðộ Luận, v.v... Lúc phiên dịch kinh Ðại Phẩm Bát Nhã, ngài Cưu Ma La Thập dịch thẳng từ chữ Phạn, rồi vua Dao Hưng lấy bản dịch cũ để dò xét, khiến cho những chỗ bất đồng của tân dịch và cựu dịch được tương thông.

Vua Dao Hưng nhận thấy giáo lý đạo Phật thâm sâu, mà thường xiển dương đức hạnh thiện lương, xác thật là con thuyền thoát ly biển khổ. Do đó, ông tuyển trích ra từ chín bộ kinh, và chú tâm nơi lý mười hai nhân duyên, mà trước tác quyển 'Thông Tam Thế Luận', để hiển thị nhân quả toàn hoàn không sai. Vương công đại thần đều khen ngợi là tuyệt tác. Ðại tướng quân Dao Hiển ở Thường Sơn, tả tướng quân Dao Sùng ở An Thành đều dốc lòng tín phụng Phật pháp, và thường thường cung thỉnh Ngài giảng kinh thuyết pháp tại Trường An Ðại Tự. Do đó, thấy rõ tôn thất Hậu Tần đều tôn sùng Phật pháp.

Từ năm 401 đến năm 405, Ngài phiên dịch kinh điển tại Tiêu Dao Viện. Từ năm 406, Ngài qua Trường An Ðại Tự, dịch được kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Hoa Thủ, Duy Ma Cật, Trung Luận, Thập Nhị Môn Luận, Thành Thật Luận, v.v...

Từ khi đến Trường An, Ngài luôn bận rộn trong công việc phiên dịch kinh điển.

Ngài Cưu Ma La Thập thấu triệt tâm tình người đời, tánh cách siêu quần, năng lực không ai bì kịp; bác ái nhân từ thuần hậu, nhu hòa nhã nhặn; hy sinh cuộc đời để dạy dỗ môn sinh. Hơn mười năm tại Trường An, Ngài luôn luôn tuyên dương tông chỉ Phật giáo đại thừa không mỏi mệt. Ngài lại cung thỉnh các vị thầy của mình như sa môn Ti Ma La Xoa và Phật Ðà Da Xá đến Trường An; hiển thị ân tình nồng hậu đối với các bậc sư trưởng. Thật là đầy đủ tư cách của bậc vĩ nhân.

Do đáp ứng lời thỉnh cầu của nhà vua và các quan triều, Ngài thường thăng tòa giảng kinh. Các vị cao đức danh tăng ở bốn phương vào đương thời thường đổ về Trường An để nghe Ngài giảng kinh thuyết pháp. Pháp sư Ðạo Sanh, trụ trì chùa Long Quang, tuy đã ngộ tận ý nghĩa kinh điển, tâm thấu triệt mọi yếu chỉ, nhưng vẫn còn chỗ nghi ngờ về các kinh điển cựu dịch, nên không quản đường xa vạn dặm, đến Trường An cầu thỉnh Ngài chỉ dạy. Ðại sư Huệ Viễn trụ trấn núi Lô Sơn, học quán thông các kinh điển, là bậc cự phách trong giới danh tăng, nhưng vẫn còn nhiều chỗ nghi ngờ, nên thường viết thơ cầu xin chỉ dạy.

Vua Dao Hưng thường nói với Ngài:

- Ðại Sư thông minh có một không hai, tánh ngộ siêu tuyệt, thiên hạ không ai sánh bằng. Nếu một mai mất đi, chẳng phải làm hạt giống pháp bị đoạn tuyệt sao?

Do đó, vua Dao Hưng đem mười mỹ nữ, ép Ngài thọ nhận, rồi sai người xây phòng riêng, cùng cúng dường thâm hậu. Vì vậy, mỗi lần giảng kinh, Ngài thường nói:

-Ví như hoa sen thanh tịnh xuất sanh từ trong bùn nhơ. Hái được hoa rồi, chớ ném vào lại bùn nhơ!

Ngài hy vọng cảnh tỉnh những bậc tu hành, thận trọng chớ nên phá giới.

Xưa kia, tại nước Quy Từ, Ngài đã từng theo luật sư Ti Ma La Xoa thọ giới. Sau này, khi đến Trung Thổ, luật sư Ti Ma La Xoa hỏi Ngài:

- Ngươi và đất Tàu thật có nhân duyên thâm trọng. Người theo Ngươi mà thọ pháp có được bao nhiêu?

Ngài thưa:

- Kinh luật ở đất Tàu vẫn chưa hoàn bị. Các kinh luận mới đa số đều do con dịch ra. Ba ngàn đồ chúng, thường theo con mà thọ pháp. Song, vì nghiệp chướng nặng nề, nên con không dám thọ nhận sự tôn kính của họ.

Trước lúc nhập tịch, Ngài triệu tập đồ chúng, bảo:

- Ta đã dịch hơn ba trăm quyển kinh luật luận. Chỉ trừ một bộ Thập Tụng Luật là chưa hoàn chỉnh, còn tất cả kinh điển khác đều bảo tồn bổn ý. Hy vọng chư vị hãy lưu truyền những kinh điển đó cho hậu thế, để hoằng dương chánh pháp. Hiện tại, trước mặt mọi người, Ta phát lời thệ nguyện: Nếu những kinh điển do Ta phiên dịch đều không sai lầm, thì khi thiêu thân này, thì lửa không thể đốt cháy lưỡi của Ta.

Ðời Hậu Tần, niên hiệu Hoằng Thủy thứ mười một (409), vào ngày hai mươi tháng tám, ngài Cưu Ma La Thập nhập tịch tại Trường An. Nhục thân được đặt tại Tiêu Diêu Viên, rồi triều đình và tăng chúng y theo nghi thức nước Thiên Trúc mà hỏa táng. Sau khi thân đã cháy ra tro, đại chúng đều thấy lưỡi của ngài Cưu Ma La Thập vẫn còn nguyên vẹn. Ðiều này minh chứng cho lời thệ nguyện của Ngài khi xưa là phiên dịch kinh điển không sai lầm. Do đó, thời nhân đều xưng tán công nghiệp phiên dịch vĩ đại của Ngài.

Sau khi ngài Cưu Ma La Thập nhập tịch, giáo đoàn ba ngàn đồ chúng dần dần tan rã, vì đã mất đi một đấng đạo sư. Luật sư Ti Ma La Xoa rời Trường An đến trú tại Thọ Xuân. Ngài Phật Ðà Da Xá đã mãn nguyện, nên trở về nước Kế Tân. Pháp sư Ðạo Sanh cũng qua Giang Nam. Phật Ðà Bạt Ða La cùng giáo đoàn của ngài Cưu Ma La Thập là Huệ Quán, đồng đến Lô Sơn. Tuy giáo đoàn tan rã, nhưng công nghiệp phiên dịch kinh điển của ngài Cưu Ma La Thập luôn sáng ngời bất diệt trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc, và những tác phẩm nghiên cứu giảng giải của Ngài vĩnh viễn hoằng truyền hậu thế.

Kinh điển đại thừa đã từng được các nhà dịch giả như Chi Lâu Ca Sấm (Hậu Hán), Khương Tăng Hội, Chi Khiêm (Ngô-Tam Quốc), Trúc Pháp Hộ (Tây Tấn), phiên dịch rất nhiều. Song, các bản dịch phần lớn văn thể chưa hoàn chỉnh thành thục, và lời văn cũng chưa diễn đạt hết ý chỉ của kinh. Do đó, sau khi duyệt lại những bản dịch cũ, ngài Cưu Ma La Thập bèn hiệu đính, và dịch ra bản mới, nhờ đó mà danh của Ngài vang lừng trong lịch sử phiên dịch kinh điển.

Ðương thời, Ngài được vua Dao Hưng ủng hộ, cùng biết bao môn hạ anh tài triết học cống hiến công sức hỗ trợ tại các đạo tràng phiên dịch, nên mới thành tựu đại nghiệp phiên dịch kinh điển trong một thời gian ngắn. Tất cả đều nhờ tài năng cao siêu và oai đức của Ngài. Ðối với ba tạng kinh luật luận tiểu thừa, từ nhỏ Ngài đã từng lưu học tại nước Kế Tân, rồi qua nước Sa Lặc học giáo lý đại thừa, nên tại nước Quy Từ đã từng thông suốt và thuộc nhiều kinh điển tiểu thừa lẫn đại thừa. Mười sáu năm bị cầm chân tại Lương Châu, Ngài đã nỗ lực nghiên cứu học tiếng Tàu, nên đối với việc phiên dịch kinh điển từ tiếng Phạn sang tiếng Tàu, thật dễ dàng. Theo quyển 'Xuất Tam Tạng Ký Tập', những kinh điển do Ngài dịch như sau: Tân Ðại Phẩm (24 quyển), Tân Tiểu Ðại Phẩm (7 quyển), Tân Pháp Hoa (7 quyển), Tân Hiền Kiếp (7 quyển), Hoa Thủ (10 quyển), Tân Duy Ma Cật (3 quyển), Tân Thủ Lăng Nghiêm (2 quyển), Thập Trụ (5 quyển), Tư-ích-nghĩa (4 quyển), Trì Thế (4 quyển), Tự Tại Vương (2 quyển), Phật Tạng (3 quyển), Bồ Tát Tạng (3 Quyển), Xưng Dương Phật Công Ðức (3 quyển), Vô Lượng Thọ (1 quyển), Di Lặc Hạ Sanh (1 quyển), Di Lặc Thành Phật (1 quyển), Kim Cang Bát Nhã (1 quyển), Chư Pháp Vô Hành (1 quyển), Văn Thù Sư Lợi Vấn Bồ Ðề (1 quyển), Di Giáo (1 quyển), Thập Nhị Nhân Duyên Quán (1 quyển), Bồ Tát A Sắc Dục (1 quyển), Thiền Pháp Yếu (2 quyển), Tọa Thiền Tam Muội (3 quyển), Tạp Thí Dụ (1 quyển, do tỳ kheo Ðạo Lược sưu tập), Ðại Trí Ðộ Luận (100 quyển), Thành Thật Luận (16 quyển), Thập Trụ (10 quyển), Trung Luận (4 quyển), Thập Nhị Môn Luận (1 quyển), Bách Luận (2 quyển), Thập Luật Tụng (61 quyển), Thập Tụng Tỳ Kheo Giới Bổn (1 quyển), Thiền Pháp Yếu (3 quyển).

Môn đệ của ngài Cưu Ma La Thập.

Ân sư truyền giới cụ túc cho Ngài là sa môn Ti Ma La Xoa, khi qua Trung Thổ, bèn hỏi:

- Ngươi cùng đất Tàu có duyên thâm hậu, vậy thì có bao nhiêu người theo ngươi thọ giáo?

Ngài thưa:

- Vì kinh luật luận ở đất Tàu chưa hoàn bị, nên phần nhiều do con tự dịch ra, và lại có ba ngàn người theo con mà học pháp.

Ðương thời, tại đạo tràng phiên dịch kinh điển, thường có ít nhất là năm trăm vị tăng hỗ trợ cho Ngài phiên dịch. Ðôi khi lại có tám trăm vị; thậm chí khi phiên dịch kinh Tư-ích, tổng cộng có hơn hai ngàn vị tăng tham gia. Giữa những người đệ tử của Ngài, được xưng dương là Thập Triết như: Tăng Triệu, Tăng Duệ, Ðạo Sanh, Ðạo Dung, Ðàm Ảnh, Huệ Nghiêm, Huệ Quán, Ðạo Tiêu, Ðạo Thường, v.v... Ðây là những vị tăng thường theo sát bên Ngài, hiệu đính kinh văn, nghe Ngài giảng kinh, cùng tham gia thảo luận. Từ năm 401 đến 409, giới Phật giáo tại Trường An đều chịu theo sự lãnh đạo của Ngài. Ngay cả sa môn Phật Ðà Bạt Ðà La nghiêm thủ giới luật, tu thiền định, phong cách vĩ đại tròn vẹn trong giới tu hành, mà không ảnh hưởng bằng giáo đoàn của Ngài, nên sau này qua ẩn cư tại Lô Sơn. Do đó, thấy rõ thế lực giáo đoàn của Ngài vào đương thời mạnh mẽ biết ngần nào. Năm 401, Ngài đến Trường An; đệ tử trẻ tuổi nhất là Tăng Triệu, hai mươi tuổi; đệ tử già nhất là Pháp Hòa, bảy mươi tuổi.

Người sau xưng tụng bốn đại đệ tử của Ngài là 'Tứ Thánh' như Tăng Triệu, Tăng Duệ, Ðạo Sanh, Ðạo Dung. 'Bát Tuấn' là Ðạo Sanh, Tăng triệu, Ðạo Dung, Tăng Duệ, Ðạo Bằng, Ðạo Ảnh, Huệ Nghiêm, Huệ Quán. 'Bát Tuấn' cộng thêm Ðạo Hằng, Ðạo Tiêu thành 'Thập Triết'. Trong những môn hạ anh tài tuấn tú, Huệ Sanh đã từng khởi xướng lý 'Xiển Ðề có Phật Tánh' cùng lý kinh Niết Bàn. Ðời Lưu Tống, hoạt động tại vùng Giang Nam là Huệ Quán, Huệ Nghiêm. Sáng lập Thành Thật Tông là Tăng Ðạo. Sáng lập Tam Luận Tông là Tăng Sùng.

A. Ngài Ðạo Sanh, thuyết đốn ngộ.

Ðạo Sanh vốn họ Ngụy, người Cự Lộc, cư ngụ tại Bành Thành, gia tộc trải qua bao đời làm quan trong triều. Cha làm quan huyện Quảng Thích, được bá tánh tôn sùng, và xưng tán là vị đại thiện nhân. Thời Ðông Tấn, huyện Quảng Thành thuộc về nước Bành Thành.

Ðạo Sanh thuở nhỏ thông minh đảnh ngộ, huệ giải như thần, uư tú vượt phàm phu, nên được người cha hết sức thương mến. Sau này gặp được Trúc Pháp Thái (320-387) mà y theo xuất gia thọ nghiệp, tu tập Phật pháp.

Năm 365, niên hiệu Hưng Ninh thứ ba, Trúc Pháp Thái theo ngài Ðạo An đến Tương Dương, rồi qua Kiến Khang ở Kinh Châu, khai đàn giảng kinh tại chùa Ngõa Quan. Ðương thời, Giản Văn Ðế (371-372) đang tại vị. Chùa Ngõa Quan được kiến thiết trong niên hiệu Hưng Ninh (363-365). Bấy giờ, chùa Ngõa Quan chỉ là một ngôi tháp đường. Trúc Pháp Thái đến đó, xây thêm tăng phòng, và xem địa thế mà kiến lập trùng môn. Ngày Trúc Pháp Thái khai giảng kinh, cả ngàn người từ vùng Tam Ngô đổ đến để nghe thuyết pháp.

Từ khi bước vào cửa Phật, tài trí siêu bạt phi phàm của Ðạo Sanh ngày càng hiển lộ. Ðối với nghĩa lý thâm áo của kinh điển, Ðạo Sanh tự nghiên tầm, khiến ngộ rõ lý lẽ. Năm mười lăm tuổi, Ðạo Sanh ngồi dưới tòa nghe Trúc Pháp Thái giảng kinh, ưng năng liễu giải nội dung, rồi lại lên tòa giảng, cùng chư tăng và danh sĩ đương thời đàm luận; lời lẽ rắn chắc như châu ngọc. Năm hai mươi tuổi, thanh danh diễn giảng kinh điển vang xa các nơi, khiến vương công quý tộc vì ngưỡng mộ, không quản đường xa vạn dặm mà đến nghe pháp.

Ðạo Sanh đãi người tiếp vật, ôn hòa cẩn trọng. Tánh tình trầm tĩnh, thâm tàng chí khí cường liệt. Lúc trẻ, Ðạo Sanh đã từng lên núi Lô Sơn. Cảm thấy Phật pháp tinh thâm, nên quyết tâm ẩn cư nơi đó mà nghiên cứu giáo lý. Ngài thường tự bảo rằng phải hiểu rõ nghĩa lý kinh điển thì mới mong bước vào cửa Phật pháp, nên học hỏi xem xét tường tận các kinh điển.

Vào năm 391, ứng theo lời cầu thỉnh của Huệ Viễn, sa môn Tăng Già Ðề Bà (Sanghadeva) đến núi Lô Sơn phiên dịch học thuyết A Tỳ Ðàm của tiểu thừa. Nhân dịp đó, Ðạo Sanh cùng Huệ Viễn đến thân cận sa môn Tăng Già Ðề Bà để học thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ. Sau bảy năm trú tại núi Lô Sơn, Ðạo Sanh cùng với Tăng Duệ, Huệ Quán, Huệ Nghiêm, đồng đến Trường An, theo ngài Cưu Ma La Thập học giáo lý bát nhã của đại thừa. Vài năm sau, những khi cùng chúng tăng đàm luận, Ðạo Sanh đều được họ xưng tán là bậc diệu khế thần cơ, tài trí phi phàm, khiến đạo tục đều tôn kính. Tại Tiêu Diên Viên, Ðạo Sanh cùng Ðạo Dung tranh luận giáo nghĩa cả trăm lần. Ðại chúng nghe những lời sắc bén của Ðạo Sanh, đều tán thán, khâm phục bậc bác học tài trí.

Ngài Cưu Ma La Thập vừa nhập tịch, Ðạo Sanh bèn trở lại Kiến Khang (Nam Kinh), trú tại chùa Thanh Viên. Ngôi chùa này vốn là hoa viên của hoàng hậu Trử Thị vào đời Ðông Tấn, và được bà ta cho xây cất, nên mới có tên là Thanh Viên. Nơi chánh điện của chùa Thanh Viên, sau này bị sét đánh, rồi lại có rồng từ trong chùa mà bay lên trời, khiến chung quanh đều tỏa ánh sáng, nên chùa được đổi tên là Long Quang Tự. Ðương thời, cư trú tại chùa Thanh Viên đều là các vị danh tăng.

Lần nọ, Tống Võ Ðế mở yến tiệc đãi chư tăng. Ðể biểu thị lòng tôn kính, Tống Võ Ðế đích thân vào bếp nấu nướng, mà quên đi giờ giấc. Qua giờ ngọ, buổi tiệc mới được khai mở. Theo giới luật là quá giờ ngọ thì sa môn không được dùng cơm. Vì vậy, đại chúng không ai dám dùng tiệc. Thấy vậy, Tống Võ Ðế bèn nói:

- Mặt trời vừa đúng giữa trưa, chưa qua quá ngọ!

Song, đại chúng vẫn y nhiên, không ai dám vi phạm giới luật. Ðạo Sanh bảo:

- Mặt trời nằm trong bầu trời, mà nay trời (thiên, chỉ cho nhà vua; nhà vua theo quan niệm của người Tàu là Thiên Tử) chỉ đúng giữa trưa, thì nhất định bây giờ là đúng vào giờ ngọ.

Nói xong, Ðạo Sanh cầm bát mà ăn. Ðại chúng nhìn nhau, rồi cũng vui vẻ y theo Ðạo Sanh mà dùng cơm. Ai ai cũng tán thán Ðạo Sanh cơ cảnh mẫn tiệp, thích ứng thời cơ mà xử lý sự tình. Các danh sĩ như Vương Hoằng Nhan Duyên, v.v... đều cung ngưỡng phong thái của Ngài, nên thường đến thỉnh vấn Phật pháp. Vua Tống Văn Ðế cũng thường qua lại với Ngài vì tôn sùng kính phục.

Xem xét lý đạo đã lâu, cuối cùng Ngài triệt ngộ được yếu chỉ của kinh điển vượt ngoài ngôn ngữ, nên tự than:

- Hình tượng nhờ biểu đạt tâm ý mà tồn tại. Ý niệm được khai mở rồi, thì chắc chắn hình thể không còn tồn tại. Ngôn ngữ dùng để giảng giải nghĩa lý. Thể hội được nghĩa lý rồi, thì cần gì câu nệ vào hình thức ngôn ngữ. Từ khi Phật giáo truyền vào Trung Thổ, kinh điển được phiên dịch rất nhiều, mà mọi người hầu như chỉ tử thủ nơi văn tự, nên ít có ai thấy rõ nghĩa lý viên dung của Phật pháp. Ðược cá rồi nên bỏ rọ, thì mới có thể khế hội liễu ngộ thật lý của Phật pháp.

Do đó, sau khi duyệt xem tất cả nội kinh ngoại điển, nghiên cứu kiểm thảo quan hệ nhân quả, cuối cùng Ngài viết ra luận lý 'Hành Thiện Không Cầu Quả Báo', 'Ðốn Ngộ Thành Phật', và trước tác quyển 'Nhị Ðế Luận', 'Phật Tánh Ðương Hữu Luận', 'Pháp Thân Vô Sắc Luận', 'Phật Vô Tịnh Ðộ Luận', 'Ứng Hữu Duyên Luận', v.v..., đều tràn đầy bao lý lẽ, và tuôn trào những ý chỉ thâm sâu. Song, việc làm này dẫn khởi sự chống đối công kích liên tục của những người bảo thủ trên văn tự, vì hiềm rằng Ðạo Sanh sửa đổi nghĩa lý kinh điển. Ngoài ra, còn một việc khiến Ðạo Sanh bị tăng chúng đuổi ra khỏi kinh sư như sau:

Ðương thời, kinh 'Ðại Bát Niết Bàn' chưa được truyền đến phương nam, mà chỉ có sáu quyển 'Nê Hoàn Kinh' được truyền đến kinh sư. Sáu quyển thuyết rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, chỉ trừ hạng Nhất Xiển Ðề (tức là đoạn hết tất cả thiện căn). Song, ngài Ðạo Sanh sau khi nghiên cứu tinh tường, phân chiết tìm tòi trong các nghĩa lý của kinh văn, và thâm nhập vào nơi ẩn diệu, bèn đề xướng chủ trương 'người Nhất Xiển Ðề cũng có Phật tánh.'

Thuyết này lại bị các người theo phái cựu học chỉ trích, mà cho đó là tà thuyết làm mê hoặc thế nhân. Càng ngày lại càng có nhiều người chê bai và phẫn nộ vì học thuyết của Ngài. Người người đều nghĩ rằng chỉ việc tống khứ Ðạo Sanh ra khỏi kinh thành thì mới ngưng được tà thuyết đó. Biết trong nhất thời không có cách nào để thuyết phục mọi người, nên trước đại chúng, ngài Ðạo Sanh nghiêm chỉnh thần sắc, dõng dạc thệ nguyện:

- Chủ trương của tôi nếu có phản ngược lại giáo nghĩa của kinh điển Phật pháp, thì tôi nguyện rằng hiện thân hiện báo, ngay tức khắc sẽ cảm bịnh cùi hủi. Thuyết của tôi, nếu hợp với chánh đạo, thì xin nguyện lúc xả báo thân này, sẽ thăng lên tòa sư tử.

Nói xong, Ngài bèn phủi y, rời khỏi kinh thành, đến núi Hổ Khâu ở phía đông nước Ngô. Trong mười ngày, thâu nạp hàng trăm đồ chúng. Theo quyển 'Phật Tổ Thống Ký' thứ hai mươi sáu, thì lúc trú tại núi Hổ Khâu, ngài Ðạo Sanh giảng kinh Niết Bàn cho các tảng đá. Ngài thuyết rằng Nhất Xiển Ðề cũng có Phật tánh, nên các tảng đá gật đầu. Câu chuyện này được gọi là 'Ðạo Sanh thuyết pháp, các tảng đá gật đầu.'

Trong mùa hè, chánh điện chùa Thanh Viên đột nhiên bị sét đánh, rồi chợt có một con rồng từ trong đó mà bay vụt lên hư không, rồi biến mất, nhưng nó vẫn còn lưu bóng tại vách tường phía tây của chùa. Do đó, tăng chúng đổi tên chùa là Long Quang. Bấy giờ có người bảo:

- Rồng đã bay khỏi, thì nhất định ngài Ðạo Sanh đã đi xa.

Chẳng bao lâu, đến núi Lô Sơn, Ngài được tăng chúng trong núi rất kính phục tôn trọng. Kinh Ðại Bát Niết Bàn sau này được truyền đến kinh sư do ngài Pháp Hiển mang bản văn chữ Phạn từ Thiên Trúc về, rồi được cả trăm chư đại đức sa môn, cùng nhau phiên dịch ra tiếng Tàu. Phiên dịch xong, người người mới biết rằng bộ kinh đó xác nhận là Nhất Xiển Ðề cũng có Phật tánh; lý lẽ này ứng hợp với chủ trương khi xưa của ngài Ðạo Sanh.

Ngài Ðạo Sanh bèn đem quyển kinh Niết Bàn mới được dịch ra giảng giải cho đại chúng. Tăng chúng ở kinh sư, biết học thuyết của ngài Ðạo Sanh phù hợp với lời kinh, nên cung nghinh Ngài trở về chùa Long Quang mà thuyết pháp. Tựu chung, học thuyết này của ngài Ðạo Sanh, được giới tăng sĩ chấp nhận trước khi Ngài nhập tịch khoảng hai năm.

Năm 434, tại chùa Ðông Lâm ở Lô Sơn, Ngài lại soạn viết quyển 'Pháp Hoa Kinh Sớ'. Vào mùa đông, Ngài lại thăng tòa thuyết pháp, thần sắc lặng lẽ, đức âm vang dội. Ngài lần lượt luận nghị, lý lẽ tuyệt diệu, khiến thính giả đều được pháp hỷ sung mãn. Thuyết pháp vừa xong, Ngài cầm cây phất tử ném xuống đất, rồi an tọa trên tòa, dung mạo nghiêm túc, nghiễm nhiên thị tịch, mà thần sắc nhất như bình thường, dạng trạng giống như nhập định. Ðiềm này ứng với lời thệ nguyện khi xưa của Ngài:

- Khi xả báo thân này, sẽ thăng lên tòa sư tử mà thị tịch.

Tin ngài Ðạo Sanh nhập tịch vừa lan truyền, vô luận tăng sĩ hay người thế tục xa gần, đều cảm thương mến tiếc. Tăng chúng tại kinh sư, trong tâm thâm u hoài hổ thẹn, cảm phục học thuyết của ngài Ðạo Sanh khi xưa. Sau này đồ chúng, an táng nhục thân của ngài Ðạo Sanh tại núi Lô Sơn.

Ngài Ðạo Sanh trước tác rất nhiều. Quyển 'Xuất Tam Tạng Ký Tập' ghi như sau: 1/ Duy Ma Cật Kinh Nghĩa Sớ (lúc soạn viết quyển Chú Duy Ma Cật Kinh, Tăng Triệu không những trích dẫn những lời giảng giải của ngài Cưu Ma La Thập, mà còn dùng lời chú giải của ngài Ðạo Sanh về bộ kinh này); 2/ Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Sớ (2 quyển. Trong Tích Tạng, quyển 'Ðại Thừa Tứ Luận Huyền Nghĩa' có trích dẫn lời sớ sao của ngài Ðạo Sanh về bộ kinh này); 3/ Nê Hoàn Kinh Nghĩa Sớ; 4/ Tiểu Phẩm Kinh Nghĩa Sớ; 5/ Thiện Bất Thọ Báo Nghĩa; 6/ Ðốn Ngộ Thành Phật Nghĩa; 7/ Nhị Ðế Luận; 8/ Phật Tánh Ðương Hữu Luận; 9/ Pháp Thân Vô Sắc Luận; 10/ Phật Vô Tịnh Ðộ Luận; 11/ Ứng Hữu Duyên Luận; 12/ Niết Bàn Tam Thập Lục Vấn; 13/ Thích Bát Trụ Sơ Tâm, Dục Thủ Nê Hoàn Nghĩa; 14/ Biện Phật Tánh Nghĩa; 15/ Trúc Ðạo Sanh đáp Vương Vấn nhất thủ, Trúc Ðạo Sanh đáp Vương Hoằng Ðốn Ngộ Nghĩa Chi Thư; 16/ Vấn Ðạo Sanh chư đạo nhân Phật Nghĩa, Phạm Bá Luân; 17/ Chúng Tăng Thuật Phạm Vấn; 18/ Phạm Trọng vấn Ðạo Sanh vãng phản tam thủ; 19/ Phó Quý phản đáp Phạm Bá Luân thư.

Theo luận 'Pháp Thân Vô Sắc', ngài Ðạo Sanh viết:" Phật nếu có hình tướng, thì sẽ sanh khởi bao điều mâu thuẩn. Hình thể vốn vô thường. Nếu Phật có hình thể, thì Phật cũng bị vô thường, nên ngược với lý Phật là thường trụ. Lại nữa, nếu Phật có hình sắc, mà hình sắc thì giới hạn, nên Phật cũng bị giới hạn; điều này mâu thuẩn với lý lẽ Phật vô giới hạn. Ngoài ra, nếu sắc nương y nơi Phật, thì sắc phải không biến chuyển, vì Phật thường hằng bất biến. Có hình sắc tức phải có biến chuyển; đó là lẽ tất nhiên, nên chủ trương này không thể thành lập. Do đó, Phật vượt ngoài hình tướng, và phải là vô sắc."

Bàn về luận 'Phật Vô Tịnh Ðộ', ngài Ðạo Sanh viết:" Vì phương tiện quyền giáo, nhiếp thọ chúng sanh, nên mới dùng Tịnh Ðộ. Phật vốn không có thân; chỉ vì muốn biểu đạt qua ngôn ngữ nên mới gọi là Phật. Phật vốn không có cõi nước, chỉ vì phương tiện mà có Tịnh Ðộ, để khiến chúng sanh nương vào. Theo lập trường của đệ nhất nghĩa đế, Phật vốn không có cõi nước, lại cũng không có cõi Tịnh Ðộ tồn tại. Tịnh Ðộ là phương tiện, thì quả báo do hành thiện cũng là phương tiện."

Theo luận 'Thiện Vô Quả Báo, ngài Ðạo Sanh viết:" Lý của người xuất gia là vô vụ lợi, không cầu công đức; đó mới là biểu hiện lý vô vi; còn cầu lợi ích thì không có công đức. Lý này đồng với sự thiện lành tuyệt đối. Hành thiện không mong đợi quả báo công đức lợi ích."

Tư tưởng 'Hành Thiện Vô Công Ðức' của ngài Ðạo Sanh cũng tương tự như câu đáp 'Vô Công Ðức' của tổ Bồ Ðề Ðạt Ma cho vua Lương Võ Ðế.

Về lý 'Ðốn Ngộ Thành Phật', ngài Ðạo Sanh viết:" Ðốn ngộ là chỉ tận cùng cái ngộ không hai, tức phù hợp với lý bất nhị. Cái ngộ bất nhị, tức là lý bất khả phân biệt. Cái ngộ bất nhị là chân huệ không thể thấy được. Chân huệ này cùng với lý bất khả phân biệt hợp thành, mà gọi là đốn ngộ. Kiến giải là ngộ. Văn giải là tín. Tín giải chẳng chân thật. Phát ngộ thì tín liền rơi rụng. Ðây là lý tự nhiên, ví như quả chín tất phải rụng. Ngộ chưa phải là tự tánh, nên phải nương nhờ tín mà phát sanh theo thứ lớp. Tín phục cảm ứng, thì ngộ đến lúc đốn đoạn phiền não, rồi tín trở nên vô dụng. Thập địa tứ quả là chân lý mà thánh nhân thường dạy bảo. Thánh nhân thường khuyên người tu hành khi gần ngộ đến thập địa tứ quả, thì thân tâm phải tự cố gắng, tức sẽ đạt đến cảnh ngộ.

Chân lý là tự nhiên, không làm, không tạo tác. Phật tánh bình đẳng, lặng lẽ thường chiếu. Vô vi tức là không ngụy vọng. Thường chiếu tức là không u ẩn. Ðầy đủ chân huệ bất nhị thì phù hợp với lý bất khả phân biệt. Ðột nhiên quán thông, băng chợt tan ra, đó gọi là đốn ngộ. Song, đốn ngộ rồi cũng phải tiệm tu.

'Biết rõ nhất niệm' chỉ cho chợt đại ngộ được nhất thiết trí. Nhờ sự tiệm tu mà đắc được nhất thiết trí. Trước tiên, sự tu hành dựa nơi trực tâm, rồi đến điểm cuối cùng là đạt được nhất thiết trí. Nơi đây, thuyết minh rằng đạt được nhất thiết là đốn ngộ, mà sự tu hành phải do tiệm tu mới thành."

B. Thầy Tăng Triệu, nhà lý giải tư tưởng Bát Nhã.

Quyển 'Triệu Luận' của Tăng Triệu ảnh hưởng rất lớn đối với lịch sử tư tưởng Phật Giáo Trung Quốc. Tăng Triệu vốn là đệ tử tài ba của ngài Cưu Ma La Thập, và là vị đã lãnh hội chính xác về tư tưởng Không Quán của ngài Long Thọ.

Tăng Triệu sanh năm 385, vốn là người Kinh Bắc, đã từng theo học với ngài Cưu Ma La Thập hơn mười năm, và cũng từng tham gia vào công tác phiên dịch kinh điển tại Trường An. Lúc còn tại gia, vì nhà nghèo phải đi viết mướn cho người khác, nên đã từng duyệt xem đọc qua kinh sử, thông hiểu kinh thư cổ điển, ái mộ huyền vi học thuật, lại biết rõ tư tưởng Lão Trang. Ðương thời, tư tưởng Lão Trang lưu bố khắp nơi. Thời niên thiếu, Tăng Triệu đã từng xem qua Ðạo Ðức Kinh của Lão Tử, nhưng chưa cảm thấy mãn ý nguyện. Tuy hiểu rõ, nhưng đạo 'an tâm giải thoát', vẫn chưa thông suốt:

- Trong quyển sách này, lời nghị luận thật đầy đủ, chính xác, khiến cho người tỉnh ngộ đôi chút. Song, việc thiết yếu là phải thuyết làm sao để tâm linh có được chỗ quy hướng cùng dẹp trừ gông cùm của thế tục. Thế nên, nội dung trong bộ sách này chưa được xem là hoàn mỹ.

Ðến lúc xem qua kinh Duy Ma Cật, bèn vui mừng vô ngần, nên cảm khái bảo:

- Ðây mới biết chỗ quy hướng!

Nhờ cơ duyên đó mà Tăng Triệu phát tâm xuất gia. Tăng Triệu nghiên cứu về kinh Bát Nhã của ngài Ðạo An, làm trọng tâm cho sự tu học, lại hiểu rõ kinh luật luận, nên tuy chỉ có hai mươi tuổi mà thanh danh đã vang khắp Trường An. Vì thiếu niên mà danh đã vang lừng, nên có người ganh tỵ, tìm đến Trường An cùng Tăng Triệu tranh biện. Tuổi tuy nhỏ, nhưng tư tưởng lại cao thâm, cùng biện tài hùng hồn, lưu loát. Trường An là chốn anh tài hội tụ, mà Tăng Triệu ra vào như chỗ không người.

Tuy thấm nhuần tư tưởng Lão Trang cùng kinh Duy Ma Cật, nhưng vừa nghe danh đức của ngài Cưu Ma La Thập tại Lương Châu, nên Tăng Triệu không quản đường xa muôn dặm, mà đến đó tu học vào năm 398. Khi đó, đối với giáo pháp Không Quán của ngài Cưu Ma La Thập, Tăng Triệu như đói mà gặp cỗ tiệc, nên hấp thụ mau chóng. Ðối với Trung Luận, Thập Nhị Môn Luận mà ngài Cưu Ma La Thập vừa dịch, thì anh tài Tăng Triệu tận lực tiếp thọ. Vì vậy, ngài Cưu Ma La Thập thường tán thán Tăng Triệu, là vị tăng trẻ tuổi tài ba siêu quần, và đạo học thành thục.

Khi ngài Cưu Ma La Thập được vua Dao Hưng thỉnh về Trường An, thì đương nhiên là Tăng Triệu cũng đi về theo. Vua Dao Hưng ra lịnh cho Tăng Triệu và Tăng Duệ trú tại Tiêu DIên Viên mà hỗ trợ cho ngài Cưu Ma La Thập phiên dịch kinh.

Xem qua những bản dịch cũ có những chỗ sai lầm, nên Tăng Triệu thường vấn hỏi ngài Cưu Ma La Thập; nhờ đó mà có sở ngộ. Ðối với giáo lý của những tập luận do ngài Long Thọ và Ðề Bà trước tác, Tăng Triệu đều tiếp nạp, và chuyên chú dồn mọi tâm huyết để cần cầu lý giải chính xác của Bát Nhã và Không Nghĩa. Những giáo nghĩa này hoàn toàn khác với tư tưởng Lão Trang. Sau khi dịch xong kinh Ðại Phẩm Bát Nhã, Bách Luận, Ðại Trí Ðộ Luận, thì ngài Cưu Ma La Thập chú thích và giảng giải rõ ràng những bộ kinh luận đó. Nhờ vậy mà Tăng Triệu thừa thọ lý Bát Nhã và Ðại Thừa Không Nghĩa, nên cảm khái khởi tâm soạn ra từ các bài trước thuật, luận giải, mà viết ra quyển 'Bát Nhã Vô Trí Luận', để xiển dương lý Bát Nhã Không Nghĩa. Theo Tăng Triệu, Bát Nhã Không Nghĩa chính là lời dạy căn bản của Phật đà, và lý giải Bát Nhã chính là tư tưởng căn bản của Phật giáo. Quyển 'Bát Nhã Vô Trí Luận' cũng hiển thị lời dạy của ngài Cưu Ma La Thập về cốt tủy của triết học Không Quán. Quyển 'Bát Nhã Vô Trí Luận' này, dẫn dụng triết lý từ các kinh luận như: Phóng Quang Bát Nhã kinh, Ðạo Hạnh Bát Nhã kinh, Duy Ma Cật kinh, cùng Bách Luận, v.v...

Cuối mùa hè năm 407, Ðạo Sanh đem quyển 'Bát Nhã Vô Trí Luận' của Tăng Triệu vào núi Lô Sơn, rồi đưa cho Lưu Di Dân duyệt xem. Ðọc xong, Lưu Di Dân tán thán:

- Nào ngờ trong tăng lữ lại có một người 'Hà Yến (là nhân vật sáng lập luận lý huyền học vào đời Ðông Tấn) như vầy?

Sau khi được Lưu Di Dân đưa cho xem quyển luận này, Huệ Viễn khen ngợi:

- Xưa nay chưa từng thấy văn chương lỗi lạc như vầy!

Biết quyển luận này không phải tầm thường, nên ngài Huệ Viễn cùng với Lưu Di Dân nghiên cứu tường tận. Từ đó, Lưu Di Dân thường viết thơ gởi đến Tăng Triệu để hỏi han về những nghĩa lý của Bát nhã. Trong sáu năm cuối đời, nơi đạo nghiệp Tăng Triệu thường tinh tấn tu hành dẫu có nhiều bịnh hoạn, nên khiến Huệ Viễn rất là tôn kính.

Dưới tòa của ngài Cưu Ma La Thập, Tăng Triệu được thừa thọ giáo nghĩa Không Quán của Long Thọ và Ðề Bà, nên cảm kích bất tận. Ở Trường An, được bài 'Niệm Phật Tam Muội Vịnh' của Lưu Di Dân và bài ' Tam Muội Vịnh' của ngài Huệ Viễn, Tăng Triệu bèn đáp lễ gởi đến cho họ quyển kinh Duy Ma Cật vừa dịch xong, lại có thêm lời chú giải. Huệ Viễn đã từng xem qua quyển 'Bát Nhã Vô Trí Luận' và quyển 'Chú Thích Duy Ma Cật kinh' của Tăng Triệu tặng cho, nên đối với giáo nghĩa Không Quán của ngài Cưu Ma La Thập, rất thi thiết thâm hiểu.

Tăng Triệu nhập tịch vào lúc chỉ mới ba mươi mốt tuổi, tức năm 414.

Những tác phẩm do Tăng Triệu trước thuật như sau: Bát Nhã Vô Trí Luận, Bất Chân Không Luận, Vật Bất Thiên Luận, Niết Bàn Vô Danh Luận, Trượng Lục Tức Chân Luận, Duy Ma Kinh Chú, Duy Ma Kinh Tự, Trường A Hàm Kinh Tự, Bách Luận Tự, Ðáp Lưu Di Dân Thư.

C. Tăng Duệ, Giáo Tướng Hình Thể Phân Tích Nguyên Thủy.

Tăng Duệ người Trường Lạc ở Ngụy Quận, xuất gia từ thuở nhỏ. Năm mười tám tuổi làm đệ tử của pháp sư Tăng Hiền. Năm hai mươi hai tuổi bác thông kinh luận. Lúc Tăng Lãng giảng kinh Phóng Quang, Tăng Duệ thường đề cử những câu hỏi để chất vấn và phê bình. Do lý do này mà Tăng Lãng và Tăng Hiền kết tình pháp hữu. Tăng Lãng bảo Tăng Hiền:

- Tăng Duệ, đồ đệ của sư huynh, thật là thông minh!

Năm hai mươi bốn tuổi, xuất ngoại du phương cầu đạo. Khi đến vùng biên giới Tây Thục thì bị người bắt, và cưỡng ép đi chăn dê. Thương nhân thấy dáng dấp, nghi là sa môn, nên hỏi vấn ý nghĩa kinh điển. Từ Tây Thục, Tăng Duệ đến Vân Nam, qua Giao Chỉ (Việt Nam), rồi tiếp xúc với thương nhân mà theo họ đến nam Thiên Trúc. Nhờ vậy mà khả năng tri thức về tiếng Phạn rất kiệt xuất. Ðến năm hai mươi bảy tuổi thì kết thúc cuộc sống du phương.

Năm hai mươi tám tuổi, Tăng Duệ đã từng đến dưới tòa của Ðạo An tại Trường An, và giúp Ðạo An nhuận bút bản dịch kinh Tứ A Hàm. Năm ba mươi ba tuổi, lúc nhà Tiền Tần bị diệt vong, cùng với sự nhập tịch của Ðạo An, Tăng Duệ lánh nạn vào núi Lô Sơn, học phương pháp niệm Phật dưới tòa của Huệ Viễn.

Vào Lô Sơn chẳng bao lâu, nghe ngài Cưu Ma La Thập đã đến Trường An, nên Tăng Duệ tức tốc tìm đến cầu đạo. Tại Trường An, do Tăng Duệ cầu thỉnh, ngài Cưu Ma La Thập dịch quyển 'Thiền Pháp Yếu'. Nhân cách Tăng Duệ cao tột, và kiến thức thâm sâu, khiến vua Dao Hưng cùng Dao Sùng phải tôn kính. Dao Sùng khen Tăng Duệ là bậc tùng bá của Nghiệp Vệ (vùng đất Ngụy Huyện, nơi Tăng Duệ xuất thân), còn vua Dao Hưng tôn xưng Tăng Duệ là vị thủ lãnh, và là ngọn cờ tiêu biểu của bốn bể. Lúc ngài Cưu Ma La Thập phiên dịch kinh Pháp Hoa, Tăng Duệ nhuận sắc, trau chuốt lời văn hoa mỹ.

Sau khi phiên dịch xong quyển 'Thành Thật Luận, ngài Cưu Ma La Thập bảo Tăng Duệ:

- Luận này có bảy chỗ để bẻ gãy lời văn Tỳ Ðàm, mà chỉ tại nơi văn luận phân biệt không rõ ràng. Nếu không cần hỏi Ta, mà có khả năng phân biện bảy chỗ đó, thì mới gọi là anh tài!

Tăng Duệ không chút nghi ngờ, đề xuất ra bảy chỗ đó rất dễ dàng, khiến ngài Cưu Ma La Thập khen ngợi:

- Ta chuyên dịch kinh điển, được ngươi lãnh hội hiểu rõ. Thật không hối hận!

Tăng Duệ viết rất nhiều bài tựa cho các bộ kinh luận do ngài Cưu Ma La Thập phiên dịch, như: Tiểu Phẩm Kinh Tự (thứ tư), Pháp Hoa Kinh Hậu Tự (thứ chín), Tư-ích Kinh Tự (thứ mười một), Tỳ Ma La Cật Ðề Kinh Nghĩa Sơ Tự (thứ mười bốn), Tự Tại Vương Kinh Hậu Tự (thứ mười lăm), Quan Trung Xuất Thiền Kinh Tự (thứ mười ba).

Sau khi ngài Cưu Ma La Thập nhập tịch, Tăng Duệ từ từ hướng về pháp môn cầu vãng sanh qua cõi tây phương. Ðến cuối đời Hậu Tần, do thế đạo loạn ly, Tăng Duệ sang Giang Nam lánh nạn, lại theo học dưới tòa của Huệ Viễn tại Lô Sơn. Năm 416, Huệ Viễn nhập tịch, Tăng Duệ không nhắm mục tiêu trú lại Lô Sơn, mà lại qua kinh đô Kiến Nghiệp ở Giang Nam, trụ trì chùa Ðiểu Y. Vào năm 420, lúc gần bảy mươi tuổi, Tăng Duệ thường giảng kinh thuyết pháp. Vua Nghị Khang ở Bành Thành ba lần khẩn thỉnh, Tăng Duệ mới nhận làm đồ đệ. Ðáp lời cầu thỉnh của Tạ Linh Vận, Tăng Duệ viết quyển 'Thập Tứ Âm Huấn' để minh hiển sự đồng dị giữa tiếng Phạn và tiếng Tàu. Lúc ấy, Tăng Duệ cũng trước tác quyển 'Dụ Nghi'.

Từ khi qua Lô Sơn, Tăng Duệ đã từng ước vọng vãng sanh qua cõi Tây Phương. Khi tự biết tánh mạng sắp tận, bèn vân tập đồ chúng, bảo:

- Bình sanh Ta thường thệ nguyện vãng sanh Tây Phương. Tự nghĩ ba nghiệp thân khẩu ý, chẳng bao giờ trái ngược với giới luật, nên nhất định sẽ được vãng sanh, chẳng có chút nghi ngờ. Nguyện đức đại từ (Phật A Di Ðà), rũ lòng thương xót, khiến muôn kiếp vì pháp, mà vãng sanh qua cõi Tây Phương!

Nói xong, bèn vào tăng phòng, đi tắm gội, rồi dâng hương lễ bái, chắp tay hướng về tây phương mà thị tịch. Ngày đó, trong tăng phòng của Tăng Duệ, có mây hương năm màu đột nhiên xông lên. Bấy giờ là năm 433; Tăng Duệ thọ tám mươi lăm tuổi.

Tư tưởng của Tăng Duệ được biểu hiện rõ ràng nhất qua quyển 'Dụ Nghi'. Lúc làm môn hạ của ngài Cưu Ma La Thập tại Trường An, Tăng Duệ đã từng học tập nghĩa lý tinh túy của kinh Bát Nhã và Pháp Hoa. Ở tại Giang Nam, gặp quyển kinh Ðại Bát Nê Hoàn do ngài Pháp Hiển từ Tây Vực mang về, Tăng Duệ bèn nghiên cứu, so sánh sự quan hệ của ba bộ kinh Bát Nhã, Pháp Hoa và Nê Hoàn, rồi viết thành bộ luận 'Dụ Nghi' để đối đáp với những nghi vấn của các nhân sĩ. Ngoài ra, Trúc Pháp Ðộ do tín phụng giáo nghĩa tiểu thừa, nên thường bài bác những kinh điển đại thừa do ngài Cưu Ma La Thập phiên dịch. Huệ Ðạo và Ðàm Lạc chất vấn và phỉ báng kinh điển đại thừa như kinh Ðại Phẩm Bát Nhã, kinh Pháp Hoa, v.v..., nên tại Trường An, phạm vô số tội, khiến bị đại chúng chỉ trích. Do phỉ báng kinh Niết Bàn tại Trường An và Bành Thành, nên lưỡi của Tăng Uyên bị cháy tiêu, mà tự nhận ra đó là quả báo của sự phỉ báng kinh điển. Tăng Uyên vốn theo Tăng Sùng học Thành Thật Luận và Tỳ Ðàm, mà trở thành học giả của luận Thành Thật.

Thấy những sự bài báng kinh điển đại thừa, Tăng Duệ đau xót vô ngần. Hầu mong phò chánh dẹp tà, nên Tăng Duệ mới viết ra quyển luận 'Dụ Nghi' để xiển minh nghĩa lý của kinh Bát Nhã, Pháp Hoa và Nê Hoàn (tức Niết Bàn), mà đặc biệt chú trọng nhắm về kinh Nê Hoàn.

Vào thời ngài Cưu Ma La Thập, kinh Nê Hoàn chưa được phiên dịch, mà chỉ có kinh Pháp Thân, thuyết rõ các loại pháp thân của chư Phật. Ngài Cưu Ma La Thập bảo rằng chúng sanh nghe Phật thuyết là có chân ngã, và tất cả đều có Phật tánh, thì là đã đầy đủ lắm rồi!

Kinh Pháp Hoa chủ trương là thấy Phật tri kiến thì đều thành Phật, mà chưa chưa hiển thị lý tất cả chúng sanh sẽ thành Phật.

Kinh Ðại Bát Nê Hoàn do ngài Pháp Hiển mang từ Thiên Trúc về đến Dương Ðô, rồi vân tập hơn một trăm chư sa môn đại đức nghĩa học mà phiên dịch. Kinh Nê Hoàn mang giáo nghĩa mới đến cho Phật giáo Trung Quốc: Phật tánh của tất cả chúng sanh đều tồn tại; tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Ðiều này, kinh Pháp Hoa chưa từng thuyết rõ ràng. Tăng Duệ chủ trương pháp thân trong kinh Pháp Thân tương đương với Phật tánh của kinh Nê Hoàn, mà viết ra quyển 'Dụ Nghi'. Ðối với sự phán xét trạch quyết về giáo tướng, bộ luận này có địa vị quan trọng trong sử Phật giáo Trung Quốc.

D. Thầy Ðạo Dung.

Ðạo Dung là một trong bốn đại đệ tử của ngài Cưu Ma La Thập. Theo quyển 'Cao Tăng Truyện' thứ sáu, Ðạo Dung là người Lâm Lự ở Cấp Ðô, xuất gia lúc mười hai tuổi, được vị thầy bổn sư ái mến tài năng, nên bảo học thuộc 'Luận Ngữ'. Từ đó cho đến khi ba mươi tuổi, tùy tâm sở nguyện mà học tập nội điển cùng ngoại điển. Nghe ngài Cưu Ma La Thập đến Trường An, Ðạo Dung liền đến dưới tòa mà học đạo. Ngài Cưu Ma La Thập giới thiệu Ðạo Dung với vua Dao Hưng:

- Người này đặc biệt có chủng tử Thích Ca, thông minh siêu quần.

Vua Dao Hưng bèn thỉnh Ðạo Dung vào Tiêu Diêu Viên để phụ tá việc phiên dịch. Do Ðạo Dung khẩn thỉnh, ngài Cưu Ma La Thập dịch ra quyển 'Bồ Tát Giới Bổn'. Lúc về già, ngài Cưu Ma La Thập dịch ra quyển Trung Luận, rồi được Ðạo Dung diễn giảng, phân chiết văn chương, khiến ngôn ngữ phiên dịch được chỉnh tề thông suốt. Ngài Cưu Ma La Thập lại bảo Ðạo Dung diễn giảng bộ kinh Pháp Hoa vừa được phiên dịch, và khen ngợi:

- Sự hưng thịnh của Phật pháp, chính là nhờ kỳ nhân Ðạo Dung này!

Ðương thời, một người bà la môn từ Thiên Trúc sang Trường An, chuyên thích tranh luận với các sa môn người Tàu. Biết rõ rằng trừ Ðạo Dung ra, trong môn đệ không ai là đối tượng có khả năng tranh luận với bà la môn này, nên ngài Cưu Ma La Thập bèn sai Ðạo Dung đi tranh biện. Vì chưa từng xem qua sách vở của ngoại đạo, nên Ðạo Dung nhờ người sao chép lại những kinh luận và lập đề của người bà la môn đó, rồi ghi nhớ trong tâm. Ðạo tràng nghị luận được công khai cử hành dưới sự tham dự của vua Dao Hưng, công hầu, bá quan văn võ cùng tăng chúng tại Trường An. Bà la môn biết lý luận của mình không sánh bằng Ðạo Dung, nên khoe khoang là đã đọc qua nhiều kinh luận. Do đó, Ðạo Dung cũng đề xuất ra danh số kinh điển sử học gấp ba lần số của bà la môn kia. Thấy vậy, ngài Cưu Ma La Thập bảo bà la môn kia:

- Chắc là ông chẳng biết đất Tàu có những nhà bác học như thế, mà khinh suất đường xa lặn lội đến đây tranh tài!

Bà la môn kia tự hổ thẹn, nên cúi mình đảnh lễ Ðạo Dung, cầu xin sám hối. Qua vài ngày sau, không ai biết rõ bà la môn kia đi đâu. Câu chuyện này hiển minh học lực và trí lực của Ðạo Dung thật phi phàm.

Ðạo Dung hầu cận ngài Cưu Ma La Thập khoảng mười lăm năm. Do thế cuộc biến chuyển và sau này vì ngài Cưu Ma La Thập đã nhập tịch, nên Ðạo Dung rời Trường An để đến Bành Thành, vào lúc năm mươi tuổi. Nơi đó, Ðạo Dung tiếp tục giảng kinh thuyết pháp, khiến thanh danh vang xa; hơn một ngàn người thường đến vấn đạo, và hơn ba trăm môn đồ thường thân cận học đạo. Năm bảy mươi bốn tuổi, Ðạo Dung nhập tịch tại Bành Thành. Ðạo Dung có viết sớ nghĩa kinh Pháp Hoa Ðại Phẩm, Kim Quang Minh, Thập Ðịa, Duy Ma Cật, v.v...

Cao Tăng Truyện, quyển thứ tám viết:" Ðạo hạnh cao siêu và những cống hiến to lớn của Ðạo Dung, Tăng Triệu, Ðạo Hằng, Ðàm Ảnh, ảnh hưởng lớn lao đến với Phật giáo tại Trường An."

 

E. Thầy Ðàm Ảnh.

Ðàm Ảnh vốn là người ở phương bắc, không thường cùng người giao đàm, chỉ an bần thủ chí tu học, thường giảng kinh Chánh Pháp Hoa và Quang Minh Bát Nhã (do ngài Trúc Pháp Hộ dịch), mà thính chúng đạo tục có hơn ngàn người. Ðến Trường An, Ðàm Ảnh được vua Dao Hưng ân cần hậu đãi. Khi ngài Cưu Ma La Thập vào Trường An, thì Ðàm Ảnh đến thân cận dưới tòa để học đạo, vào lúc sáu mươi tuổi (tuổi tác lớn hơn ngài Cưu Ma La Thập). Ngài Cưu Ma La Thập nói với vua Dao Hưng:

- Ðàm Ảnh là một vị tăng tiêu biểu đức hạnh thanh tịnh cao vời.

Do đó, vua Dao Hưng bèn ra lịnh cho Ðàm Ảnh vào Tiêu Diêu Viên hỗ trợ việc phiên dịch kinh.

Lúc luận Thành Thật vừa dịch xong, Ðàm Ảnh cùng ngài Cưu Ma La Thập hỗ tương vấn đáp tận cùng ý tưởng. Vì đã từng diễn giảng bộ kinh Chánh Pháp Hoa (do ngài Trúc Pháp Hộ dịch), nên Ngài Cưu Ma La Thập vừa dịch xong kinh Tân Pháp Hoa, thì Ðàm Ảnh bèn tận tâm tận sức hiệu đính bộ kinh này, và viết bốn quyển chú giải về nghĩa lý thâm sâu áo diệu. Theo truyện kể, Ðàm Ảnh trực tiếp tham gia phiên dịch hoặc chú thích kinh luận như luận Thành Thật, Trung Luận, kinh Pháp Hoa.

Ngài Cưu Ma La Thập vừa nhập tịch, Ðàm Ảnh bèn ẩn tu tại chùa Sơn Lâm, hầu mong giữ gìn khí tiết, nỗ lực tu hành, dẫu già mà tinh thần vẫn sung túc. Cuối cùng Ðàm Ảnh nhập tịch vào năm bảy mươi tuổi.

Trong các đệ tử của ngài Cưu Ma La Thập, không những có các nhà phiên dịch, chú giải ưu tú tuyệt luân, mà còn có những vị đầy đủ tài trí về chính trị như Ðạo Hằng (346-417) và Ðạo Tiêu.

G. Thầy Ðạo Hằng và Ðạo Tiêu.

Ðạo Hằng người Lam Ðiền. Lúc chín tuổi đã từng được ẩn sĩ Trương Trung tiên đoán:

- Thằng bé này có đủ tướng của bậc đại nhân. Ở thế tục thì sẽ làm đến bậc Tể Tướng, còn xuất gia thì sẽ làm vị cao tăng khiến Phật pháp được sáng lạn.

Thuở ấu niên, Ðạo Hằng sớm để tang cha. Năm hai mươi tuổi, mẹ cũng qua đời, nên bèn xuất gia. Lúc ngài Cưu Ma La Thập vào Trường An, Ðạo Hằng liền đến thân cận, tham gia công tác phiên dịch. Ðạo Hằng cùng Ðạo Tiêu tài trí hơn người, nên danh vang khắp Trường An. Biết hai vị có tài năng kiến thức về chánh trị, nên vua Dao Hưng bèn sai Dao Hiển tìm phương cách để khuyên họ hoàn tục, thỉnh cầu trợ phò ngôi vua. Vua Dao Hưng cũng thường viết thơ trực tiếp thỉnh cầu họ phò triều đình.

Ðương thời, vua Dao Hưng thường cần cầu các bậc hiền tài ra giúp nước, và cũng triệu vời các đạo nhân ẩn sĩ ở sơn lâm về kinh đô phò tá. Do sự khuyến khích của vua Dao Hưng, ẩn sĩ Tăng Lữ hoàn tục, rồi về triều nhậm chức. Song, đối tượng chính của vua Dao Hưng là Ðạo Hằng và Ðạo Tiêu. Tuy có chút thanh danh, và biết thế cuộc vô thường, cùng hiển thị mình đã là người xuất gia, nên Ðạo Hằng và Ðạo Tiêu chân thành cự tuyệt lời cầu thỉnh của vua Dao Hưng. Vì cho thời cuộc là quan trọng, nên vua Dao Hưng ba lần triệu vời hai vị vào triều phó tá. Song, hai vị vẫn từ chối, và viết thơ gởi đến vua Dao Hưng để biểu lộ ý chí của mình:" Chúng tôi vốn tu tập Phật pháp từ thuở nhỏ. Muốn dùng tâm nguyện ngu thành, đem thân nhỏ nhít mà mặc pháp phục để độ chúng sanh. Nguyện nhỏ nhoi này, thừa mông Thánh Thượng rũ lòng thương xót cho. Tuy bảo rằng muốn hoằng đạo Bồ Tát, nhưng theo tầm nhìn của người xuất gia thì sức lực của chúng tôi thật có giới hạn, nên thật khó lòng mà đáp ứng sắc lịnh của Thánh Thượng!"

Thấy không thể khuyên nhủ được hai vị, vua Dao Hưng bèn viết thơ nhờ ngài Cưu Ma La Thập khuyên họ hoàn tục để giúp ông ta. Ðiều này cho thấy triều đình của Dao Hưng chưa có đủ các quan cố vấn siêu quần, nên rất ngưỡng vọng nơi Ðạo Hằng và Ðạo Tiêu.

Vua Dao Hưng lại viết thơ cho Ðạo Tuyển (nhận trọng trách kiểm duyệt tăng chúng trong nước):" Ðạo Hằng và Ðạo Tiêu tuy là người xuất gia, nhưng lại có đủ tài năng chỉnh lý chánh sự ở thế gian. Hy vọng rằng họ sẽ y theo ý nguyện của Trẫm."

Ðối với việc vua Dao Hưng ba lần cầu thỉnh Ðạo Hằng và Ðạo Tiêu ra phò chánh, ngài Cưu Ma La Thập, Tăng Tuyển, v.v... nhận thấy hai vị này không thể cởi bỏ y pháp phục mà lo việc triều chính, nên viết thơ dâng tấu trình vua Dao Hưng:" Tăng chúng Phật giáo phải lấy việc thủ tiết tu đạo làm trọng. Tăng phải là tăng. Người xuất gia đối với chánh trị của thế tục, cứu cánh không làm được gì ích lợi. Do đó, hai vị xuất gia Ðạo Hằng và Ðạo Tiêu, chỉ có nguyện nhỏ là muốn thủ tiết giữ bổn phận. Ngưỡng vọng triều đình phê chuẩn."

Nhờ ngài Cưu Ma La Thập, Tăng Tuyển, v.v... dâng tấu, nên triều đình mới phê chuẩn cho Ðạo Hằng và Ðạo Tiêu tiếp tục xuất gia tu đạo. Ðạo Hằng cảm kích bảo:

- Cổ nhân có câu: 'Người tự cầu tài vật để có ích lợi riêng tư, khiến cho quỷ không ưa. Người tự làm nổi danh tức là tự sát', thật không phải là lời nói suông.

Sau khi ngài Cưu Ma La Thập nhập tịch, Ðạo Hằng bèn vào sơn cốc ẩn tu; ăn rau dại, uống nước suối, đắp y sơ sài, cùng tu thiền định, tuyệt dứt giao du với thế tục, rồi nhập tịch vào năm bảy mươi hai tuổi (417). Ðạo Hằng có trước tác quyển 'Thích Bác Luận' và 'Bách Hành Châm'. Ðạo Tiêu viết hai quyển 'Xá Lợi Phất A Tỳ Ðàm Tự' và 'Ðiếu Vương Kiều Văn.'

Quyển 'Thích Bác Luận' do Ðạo Hằng soạn viết vào lúc tuổi già, để châm chế lại sự bài bác vấn nạn về Phật giáo và sa môn của hai đạo sĩ họ Viên và họ Hà.

21. Ngài Phật Ðà Bạt Ðà La (Buddhadhadra).

Ngài Phật Ðà Bạt Ðà La, Tàu dịch là Giác Hiền, người nước Ca Duy La Vệ (thuộc nước Nepal), vốn là hậu duệ của dòng Thích Ca Cam Lộ Phạn Vương, sinh vào năm 359. Do nội tổ là Ðạt Ma Ðề Bà (Tàu dịch là Giác Thiên) thường sang bắc Thiên Trúc buôn bán, nên gia đình di cư đến trú tại nước Ca Duy La Vệ. Năm ba tuổi, thân phụ qua đời, rồi năm năm tuổi thân mẫu cũng tạ thế. Do đó, Ngài được gia đình người chú nuôi dưỡng. Sa môn Tổ Cưu Bà Lợi biết ngài Phật Ðà Bạt Ðà La rất mực thông minh mẫn tiệp, nên xin người chú cho Ngài xuất gia làm sa di. Ðến năm mười bảy tuổi, công khóa hằng ngày của Ngài là học thuộc kinh kệ. Những bài kinh kệ mà đồng học phải học trong một tháng, đối với Ngài chỉ cần một ngày là học thuộc.

Thọ giới cụ túc xong, Ngài lại càng tinh tấn tu hành thiền định cùng giới luật, và học rộng thông đạt các kinh điển. Ngài cùng với sa môn Tăng Già Ðạt Ða sang du học tại nước Kế Tân. Tuy là đồng lứa tuổi, sa môn Tăng Già Ðạt Ða lại rất kính phục tài năng xuất chúng của Ngài, nhưng không biết Ngài đã đạt đến cảnh giới nào. Lần nọ, đang đóng cửa nhập thất ngồi thiền, Tăng Già Ðạt Ða chợt thấy Ngài đến, rồi bèn hỏi rằng từ đâu đến. Ngài đáp:

- Tôi vừa lên cung trời Ðâu Suất lễ bái Bồ Tát Di Lặc rồi trở lại nơi đây.

Nói xong, ngài Phật Ðà Bạt Ðà La liền biến mất. Sa môn Tăng Già Ðạt Ða mới biết rằng Phật Ðà Bạt Ðà La là thánh nhân hóa thân, nên không thể nào biết được cảnh giới của Ngài. Sau này, vì thường thấy những hành tung thần dị của Ngài, nên Tăng Già Ðạt Ða hỏi ra thì biết là Ngài đã chứng đến quả vị A La Hán 'Bất Hoàn' (tức quả A Na Hàm).

Ngài thường thích đi chu du khắp các nước lân cận, để hoằng dương Phật pháp, cùng quán sát phong tục nhân tình. Ðương thời, sa môn người Tàu là Trí Nghiêm, sang nước Kế Tân, thấy chúng tăng thanh tịnh, nên muốn cầu thỉnh thánh tăng sang đất Tàu. Thầy thường nói:

- Chúng tăng đất Tàu, có tâm cầu Phật pháp, nhưng chưa từng gặp được các đại sư chân chánh, nên không thể lãnh hội chánh pháp.

Thầy Trí Nghiêm đi đó đây, hỏi han dân chúng ở nước Kế Tân rằng ai là người có đủ oai đức đạo hạnh để hoằng dương Phật pháp ở Ðông Ðộ. Chúng nhân đều bảo:

- Có một sa môn tên là Phật Ðà Bạt Ðà La, xuất sanh tại Thiên Trúc, gia thế đời đời tín phụng Phật pháp, ấu niên xuất gia, tinh thông kinh luật, lại đã từng thọ nghiệp với đại thiền sư Phật Ðại Tiên.

Ðương thời, ngài Phật Ðại Tiên cũng bảo Trí Nghiêm:

- Có khả năng tuyên dương Phật pháp, cùng khiến tăng chúng đông độ được cảm hóa, chỉ có Phật Ðà Bạt Ðà La.

Do Trí Nghiêm thành tâm khẩn ý thỉnh cầu, Ngài ưng thuận sang hoằng pháp tại Trung Thổ. Lễ bái từ tạ ân sư Phật Ðại Tiên xong, Ngài bèn vượt ngọn Thông Lĩnh, du hành qua bao núi sông sa mạc, đi ngang qua sáu quốc gia. Các quốc vương nơi đó đều cúng dường thâm hậu sau khi biết được chí nguyện hoằng dương Phật pháp của Ngài. Ba năm sau, Ngài đến Giao Châu (Việt Nam). Kế đến, Ngài lên thuyền, tiếp tục cuộc hành trình. Lần nọ, trên đường đến Giao Châu, thuyền tới một hòn đảo. Ngài bèn bảo chủ thuyền:

- Có thể dừng lại nơi hòn đảo này.

Chủ thuyền nói:

- Thuyền đang thuận gió chạy trên biển, không thể dễ dàng dừng lại nơi đây được, vì thời giờ của hành khách rất quan trọng.

Nói xong, chủ thuyền vẫn cho thuyền chạy. Sau hai trăm dặm, chợt gặp cơn giông bão, thuyền bi thổi trở lại hòn đảo đó. Chúng nhơn trên thuyền mới biết tài năng thần dị của Ngài, bèn lễ bái cúng dường, nghe lời chỉ dẫn. Lúc gió thuận thổi đến, chủ thuyền định cho thuyền chạy. Ngài bảo:

- Không thể xuất phát!

Chủ thuyền vì biết thần dị của Ngài, nên bèn nghe theo, chẳng dám khinh xuất khởi hành. Chẳng bao lâu, có tin tức bảo rằng các chiếc thuyền xuất phát ra khơi khi trước, đều bị đắm chìm. Ðêm nọ, Ngài chợt bảo chủ thuyền nên khởi hành ra khơi, nhưng ông chẳng chịu nghe lời. Không còn biện pháp nào, một mình Ngài tự trương buồm, cho thuyền chạy ra khơi. Chốc lát sau, những con thuyền trú lại hòn đảo đó đều bị hải tặc đến cướp bóc. Chẳng bao lâu, thuyền đến Thanh Châu, phía đông Lai Quận ở Trung Thổ. Nghe tin ngài Cưu Ma La Thập đã đến Trường An, Ngài bèn tức tốc đến đó bái kiến. Vừa gặp được ngài Phật Ðà Bạt Ðà La, ngài Cưu Ma La Thập rất vui mừng, rồi cùng nhau đàm luận. Ngài Phật Ðà Bạt Ðà La hỏi ngài Cưu Ma La Thập:

- Sự giải thích kinh điển của Ngài chẳng có gì là đặc sắc, mà sao lại thu hút được nhiều người, khiến thanh danh vang lừng khắp chốn?

Ngài Cưu Ma La Thập đáp:

- Do vì họ có duyên sâu dầy với tôi, nên khiến được cung kính. Song, tài đức của tôi, thật chẳng tương xứng với thanh danh đó.

Mỗi khi có chỗ nghi ngờ nào, ngài Cưu Ma La Thập đều cùng với ngài Phật Ðà Bạt Ðà La thảo luận giải quyết. Song, vì sở tu học uyên thâm sâu cạn bất đồng, nên tư tưởng của hai ngài Phật Ðà Bạt Ðà La và Cưu Ma La Thập cũng khác nhau, khiến thường phát sanh những cuộc tranh luận. Lần nọ, thái tử Hậu Tần là Dao Hoằng thỉnh Ngài thuyết pháp. Chúng tăng hội tụ tại đông cung để nghe kinh và thảo luận. Bấy giờ, hai ngài Phật Ðà Bạt Ðà La và Cưu Ma La Thập cùng thảo luận vấn đề 'Cực Vi'. Ngài Cưu Ma La Thập hỏi:

- Tại sao thuyết rằng các pháp vốn là không?

Ngài Phật Ðà Bạt Ðà La nói:

- Vật chất do vô số cực vi hợp thành, mà không có tự tánh, nên đều là không.

- Nếu dùng vô số cực vi mà hợp thành vật chất, rồi bảo nó vốn là không, thì làm sao chứng minh là một hạt cực vi vốn không có tồn tại? - Nhiều người trong chúng ta thường thuyết để phá bỏ hạt cực vi trần. Song, tôi không dùng bằng cách đó.

- Thế thì hạt cực vi trần có bất diệt chăng?

- Nhìn về một hại cực vi trần thì thấy nhiều hạt vi trần đều sẽ bị tiêu diệt. Nhìn về phương diện nhiều hạt cực vi trần thì thấy một hạt vi trần cũng sẽ bị tiêu diệt.

Vài ngày sau, tăng chúng tại Trường An lại thỉnh Ngài thuyết pháp. Ngài bảo:

- Muôn sự muôn vật đều không có tự tánh. Duyên đủ thì chúng mới phát sanh. Vì có một hạt cực vi trần, nên mới có nhiều hạt cực vi trần. Hạt cực vi trần vốn không có tự tánh độc lập, nên đều là không.

Vua Dao Tần thường cúng dường hơn ba ngàn tăng chúng, nên có thế lực rất mạnh. Ngài an phận tịch tĩnh, sống đạm bạc, khác với những tăng sĩ thường phan duyên ra vào nơi chốn quyền quý. Lần nọ, Ngài bảo đồ chúng:

- Ta thấy có năm chiếc thuyền, đồng xuất phát từ Thiên Trúc, mà sẽ đến đây.

Tin này được đồ chúng truyền ra ngoài, khiến tăng chúng ở Trường An đều bảo rằng Ngài nói những lời mê hoặc quần chúng. Tại Trường An, Ngài hoằng dương thiền pháp rộng rãi, khiến các thiền gia khắp nơi nghe thanh danh đều tìm đến tu học. Vì trong đồ chúng có sự phân biệt cao thấp, sâu cạn rõ ràng, nên một số đệ tử dối trá, giả danh của Ngài mà làm những điều xằng bậy. Lần nọ, có một người đệ tử tự bảo rằng đã chứng quả A Na Hàm, mà Ngài chưa từng ấn chúng kiểm nghiệm. Việc này khiến cho tăng chúng tại Trường An cùng nhau hủy báng Ngài không ngừng. Do sợ tai nạn đến thân, nên đồ chúng của Ngài phải lẩn trốn, ly tán đi hết. Song, Ngài Giác vẫn ung dung tự tại, không chút động tâm. Môn hạ của ngài Cưu Ma La Thập là Ðạo Hằng gởi thơ đến cho Ngài, viết:

- Phật chưa từng thuyết pháp mình chứng đắc. Ðầu tiên, Ngài tự bảo có năm chiếc thuyền sắp đến nơi đây; thật là điều hư vọng giả dối. Kế đến, đồ chúng lại điên đảo làm mê hoặc quần chúng. Ðó là phạm giới đại vọng ngữ, nên không thể lưu lại nơi đây. Xin Ngài hãy mau đi nơi khác.

Ngài bảo:

- Thân Ta nhỏ như bọt bèo, đến đi đều tự tại dễ dàng. Song, chỉ tiếc rằng chí nguyện hoằng dương Phật pháp chưa hoàn thành.

Cùng với hơn bốn mươi người đệ tử là Huệ Quán, v.v..., Ngài rời Trường An, nhưng thần thái vẫn an nhiên tự tại, không chút buồn bã. Người biết tài năng của Ngài đều luyến tiếc, tiễn đưa có trên cả ngàn người.

Nghe Ngài rời khỏi Trường An, vua Dao Hưng hối tiếc không nguôi, nên bảo Ðạo Hằng:

- Ngài Phật Ðà Bạt Ðà La vì nhận trọng trách hoằng dương Phật pháp mà đến Trung Thổ. Lời dạy bảo của Ngài khiến cho người người đều cảm kích, tán thán. Sao chỉ vì một câu nói sai lầm mà khiến chúng nhân mất đi một đấng tôn sư?

Nói xong, vua Dao Hưng bèn sai sứ giả chạy đuổi theo Ngài mà thỉnh cầu trở lại Trường An. Ngài bảo sứ giả:

- Tôi biết rõ ân tình của nhà vua, nhưng tiếc thay không thể tuân theo mạng lịnh.

Ngài bèn dẫn đồ chúng vào nam, đến núi Lô Sơn. Lâu nay đã nghe thanh danh của ngài Phật Ðà Bạt Ðà La, nên Huệ Viễn bèn vui mừng ra tiếp rước. Huệ Viễn biết rằng chỉ do lỗi ở các môn đệ, mà ngài Phật Ðà Bạt Ðà La bị bài báng. Bàn về năm chiếc thuyền sẽ đến Trung Thổ, đó chỉ là ý kiến cá nhân chứ không phạm giới luật. Vì vậy, Huệ Viễn bèn viết thơ gởi đến vua Dao Hưng cùng tăng chúng ở Trường An mà giải oan cho Phật Ðà Bạt Ðà La, rồi cầu thỉnh Ngài vào núi phiên dịch kinh điển thiền pháp. Vốn có chí nguyện hoằng pháp tại miền tây, và không muốn sống ẩn dật một nơi, nên chẳng bao lâu Ngài bèn qua Giang Lăng. Trên đường gặp một chủ thuyền người ngoại quốc, đệ tử của Ngài bèn hỏi han, và biết rõ có năm chiếc thuyền từ Thiên Trúc sang Trung Thổ. Lời này tương hợp với điềm tiên đoán của Ngài khi xưa. Ngài vừa đến Giang lăng, toàn thể tăng ni sĩ thứ đều canh cánh đua nhau đến lễ bái cúng dường. Song, Ngài không thọ nhận bát cứ lễ vật nào, chỉ ngày ngày mang bình bát khất thực mà không phân biệt nhà sang hèn.

Lưu Dụ (tức Lưu Tống Võ Ðế) mang quân chinh phạt Lưu Nghị. Quan sử của Lưu Dụ là Viên Báo ở Trần Quận cũng kéo quân đến Giang Lăng. Ngày nọ, Ngài cùng đệ tử Huệ Quán đến dinh thự của Viên Báo khất thực. Do Viên Báo chưa tín phụng Phật pháp, nên đối xử với Ngài và Huệ Quán rất tệ bạc. Ăn chưa no, Ngài và Huệ Quán bèn đứng dậy cáo từ. Viên Báo bảo:

- Các vị chưa ăn xong, sao lại cáo từ?

Ngài bảo:

- Tâm lượng bố thí của ông có giới hạn. Song, Ta đã dùng hết những thức ăn mà ông dọn ra.

Viên Báo bèn sai người đem thêm cơm ra, mà quả nhiên cơm đã hết. Viên Báo cảm thấy thật xấu hổ, hỏi Huệ Quán:

- Vị sa môn đó là người như thế nào vậy?

Huệ Quán bảo:

- Ngài là vị đức dầy cao viễn, mà người phàm phu không thể hiểu rõ được.

Viên Báo cảm kích thần dị của Ngài, nên bẩm tấu với Lưu Dụ. Lưu Dụ bèn sai người thỉnh Ngài đến để tương kiến. Vừa gặp Ngài, Lưu Dụ rất cung kính, cúng dường chu toàn. Trở về kinh sư, Lưu Dự cũng thỉnh Ngài đến Trường An, cư trú nơi chùa Ðạo Tràng. Nghi dung của Ngài chân chánh đoan trực, chẳng đồng với phàm nhân, mà chí nguyện cũng thanh cao. Các pháp sư tại kinh đô thường bảo nhau:

- Thiền sư Phật Ðà Bạt Ðà La tại chùa Ðạo Tràng đã đắc được ý trời, thật giống như một vì vua ở Thiên Trúc.

Sa môn Chi Pháp tại Vu Ðiền thỉnh được một phần của kinh Hoa Nghiêm có ba mươi ngàn câu kệ, mà chưa được phiên dịch. Ðến năm 418, nội sử Ngô Quận Mãnh Tiêu, tả vệ quân Trử Thúc Ðộ lại cầu thỉnh ngài Phật Ðà Bạt Ðà La phiên dịch. Cùng với hơn một trăm tăng chúng như Pháp Nghĩa, Huệ Nghĩa, Huệ Nghiêm, v.v... Ngài phiên dịch phần đầu của kinh Hoa Nghiêm tại chùa Ðạo Tràng. Bản văn dịch rất lưu loát, đạt thấu yếu chỉ của kinh, nên được mọi người tán thán. Nơi điện đường dịch kinh Hoa Nghiêm tại chùa Ðạo Tràng, được gọi là điện đường Hoa Nghiêm, để kỷ niệm cho sự dịch kinh được thành tựu.

Những kinh điển do ngài Phật Ðà Bạt Ðà La phiên dịch như kinh Quán Phật Tam Muội Hải (6 quyển), kinh Niết Bàn, Tu Hành Phương Tiện Luận, v.v... Tổng cộng có mười lăm bộ, một trăm mười bảy quyển. Tất cả đều tương hợp với yếu chỉ của kinh điển, và lời dịch cũng rất lưu loát rõ ràng.

Năm 429, ngài Phật Ðà Bạt Ðà La viên tịch, thọ bảy mươi mốt tuổi.

22. Ngài Phất Nhã Ða La ( Punyatara).

Phất Nhã Ða La, dịch là Công Ðức Hoa. Ngài vốn là người nước Kế Tân, xuất gia từ thuở nhỏ, giới hạnh nghiêm túc, khiến người người đều xưng tán. Ngài thông suốt ba tạng kinh luật luận, và chuyên trì tụng bộ Thập Tụng Luật. Ngài vốn là bậc thầy của tăng chúng trong và ngoài nước. Thời nhơn đều bảo rằng Ngài đã chứng thánh quả.

Vào đời Hậu Tần, niên hiệu Hoằng Thủy (399-415), Ngài chống tích trượng đến Trường An. Vua Dao Hưng lấy lễ thượng khách mà hậu đãi. Ngài Cưu Ma La Thập cũng tôn sùng giới đức của ngài Phất Nhã Ða La. Bấy giờ, kinh điển đã được truyền dịch rất nhiều, nhưng luật tạng lại chưa được xiển dương, nên vừa nghe tin ngài Phất Nhã Ða La đến Trường An, ai ai cũng đều ngưỡng mộ. Ngài Cưu Ma La Thập bèn vân tập các danh tăng trong kinh thành đồng đến cung thỉnh ngài Phất Nhã Ða la tụng bộ Thập Tụng luật. Ngày mười bảy tháng mười năm 404, tại chùa Trường An Ðại Tự, ngài Phất Nhã Ða La tụng lại bộ Thập Tụng Luật; ngài Cưu Ma La Thập dịch sang chữ Tàu. Trong ba phần, vừa dịch được hai phần thì ngài Phất Nhã Ða La nhiễm bịnh mà nhập tịch. Ðại nghiệp chưa thành mà bậc thánh nhân đã thị tịch, khiến đại chúng thương tiếc vô ngần.

 

23. Ngài Ðàm Ma Lưu Chi (Dharmaruci).

Ðàm Ma Lưu Chi, dịch là Pháp Lạc. Ngài vốn là người Tây Vực, bỏ tục xuất gia nhập đạo, nổi danh vì thường trì tạng luật.

Mùa thu năm 404, Ngài đến Trường An. Lúc trước, ngài Phất Nhã Ða La chưa dịch xong quyển Thập Tụng Luật thì nhập tịch. Ngài Huệ Viễn tại Lô Sơn, nghe danh ngài Ðàm Ma Lưu Chi chuyên tụng bộ Tỳ Ni, đắc đưọc nơi cứu cánh của luật tạng, bèn viết thơ gởi đến:" Phật pháp đầu tiên hưng khởi nơi thượng quốc, rời từ từ lưu truyền sang Tây Vực hơn bốn trăm năm. Hiện tại giới luật của chư sa môn khiếm khuyết rất nhiều. Lúc trước, sa môn Phất Nhã Ða La từ nước Kế Tân sang đây tụng đọc quyển Thập Tụng Luật bằng tiếng Phạn; pháp sư bác học Cưu Ma La Thập dịch sang tiếng Tàu. Dịch được chỉ quá phân nửa thì ngài Phất Nhã Ða La thị tịch, khiến đại nghiệp chưa được hoàn thành. Thật tiếc lắm thay! Nay nghe tin Nhân Giả có đem theo bộ kinh luật này, khiến tôi vui mừng mong muốn được gặp."

Ðược thơ của ngài Huệ Viễn và được vua Dao Hưng khẩn thỉnh, ngài Ðàm Ma Lưu Chi bèn cùng với ngài Cưu Ma La Thập dịch trọn bộ Thập Tụng Luật. Sau đó, bộ luật này được chư tăng nghiên cứu tường tận, rồi kiểm duyệt hiệu đính. Tiếc rằng chưa trau chuốt lại văn nghĩa thì ngài Cưu Ma La Thập đã nhập tịch.

Lúc trú tại Trường An Ðại Tự, được Huệ Quán thỉnh mời xuống kinh sư (Nam Kinh), ngài Ðàm Ma Lưu Chi bèn đáp:

- Nơi đây đã có các bậc danh đức truyền pháp lợi sanh. Ta phải đến những nơi chưa có luật giáo.

Do đó, Ngài du hóa sang phương khác, mà không ai biết nhập tịch tại nơi nào.

24. Ngài Ðàm Vô Sấm (Dharmaraksa).

Ngài Ðàm Vô Sấm cũng được gọi là Ðàm Ma Sấm, người trung Thiên Trúc. Sáu tuổi đã để tang cha, rồi từ đó theo mẹ đi dệt vải khắp nơi để sinh sống. Ðương thời, sa môn Ðạt Ma Da Xá (Pháp Minh) rất được chúng tăng kính trọng. Bà mẹ bần khổ hâm mộ sa môn Ðạt Ma Da Xá nên cúng dường thâm hậu, cùng cho ngài Ðàm Vô Sấm đi theo học đạo. Năm mười tuổi, Ngài cùng chúng bạn đồng học tụng kinh chú. Từ đó, hiển xuất thiên tánh minh mẫn siêu quần; trong một ngày tụng kinh có thể nhớ hơn mười ngàn chữ, nên giữa nhóm môn đồ, Ngài được sa môn Ðạt Ma Da Xá khen ngợi vô ngần.

Ðầu tiên, Ngài học pháp tiểu thừa, cùng ngũ minh luận thư học vấn của nước Thiên Trúc. Ngài lại có tài giảng thuyết, cùng khả năng biện luận với người, mà không ai khiến khuất phục được. Sau này, Ngài tranh luận với thiền sư Bạch Ðầu cả một trăm ngày. Cuối cùng, Ngài đành phải bội phục thiền sư Bạch Ðầu, và hỏi:

- Thiền Sư còn có kinh điển gì, có thể cho tôi xem chăng?

Thiền sư Bạch Ðầu bèn đưa kinh Niết Bàn được viết trên vỏ cây, đưa cho Ngài. Xem qua bộ kinh này, Ngài lại càng tự hổ thẹn:

- Mình thật quá thô thiển. Ðã từ lâu chưa từng biết đến chánh đạo đại thừa.

Do đó, Ngài thỉnh cầu đại chúng vân tập để sám hối, và phát nguyện chuyển hướng sang học đại thừa. Năm hai mươi tuổi, Ngài đã tụng thuộc hơn hai triệu chữ.

Người anh của ngài Ðàm Vô Sấm vốn chuyên huấn luyện voi của quốc vương. Ngày nọ, con voi tai trắng của quốc vương đột nhiên bị chết, khiến quốc vương nổi giận lôi đình, ra lịnh giết chết, rồi ban chiếu chỉ:

- Nếu ai dám đến nhìn thi thể của hắn, Ta sẽ tru di tam tộc!

Vì vậy, trong thân tộc, không có ai dám làm trái lịnh nhà vua, chỉ có Ngài là dám đến nhặt thi thể. Quốc vương biết được bèn, sai quân bắt Ngài vào cung chất vấn. Với thần sắc điềm đạm tự nhiên, không lộ chút vẻ sợ sệt, Ngài bảo:

- Ðại Vương y chiếu theo pháp luật mà giết anh ta. Tôi cũng y chiếu theo mối quan hệ cốt nhục mà thâu lượm thi thể của anh ta. Hành động của hai chúng ta, đều hợp với luân lý mà làm, chẳng có gì là sai trái! Sao lại còn sanh tâm bực tức?

Thấy chí khí thanh cao của Ngài, quốc vương không những tha tội chết, mà còn giữ ở lại hoàng cung để cúng dường.

Giống như ngài Phật Ðồ Trừng, ngài Ðàm Vô Sấm thông thạo chú thuật, thường hiển hiện năng lực thần dị rất linh nghiệm, nên khiến người Tây Vực đều xưng tán là 'Ðại Chú Sư'.

Lần nọ, Ngài cùng với quốc vương đi vào núi. Quốc vương khát nước, sai các vệ sĩ đi tìm nước mà chẳng được. Thấy bên vệ đường có một tảng đá lớn, Ngài bèn tụng thần chú khiến nước vọt ra từ nơi tảng đá đó. Ngài tán thán ân đức của quốc vương:

- Do ân đức của Ðại Vương mà cảm ứng đến dòng nước trong vụt ra từ tảng đá cuội này.

Thấy đạo thuật vi diệu phi thường của Ngài, quốc vương rất hoan hỷ, nên lại càng hậu đãi. Chẳng bao lâu, quốc vương từ từ xa lánh và đối xử tệ bạc với Ngài. Thấy vậy, Ngài bèn cáo từ quốc vương, rồi mang mười hai quyển kinh Ðại Niết Bàn, kinh Bồ Tát Giới, v.v... hướng đến nước Kế Tân và Quy Từ (Kuchar). Vì dân chúng nơi đó vốn tín phụng giáo tiểu thừa, nên không tin tưởng kinh điển đại thừa. Ngài phải lại sang Ðôn Hoàng, rồi đến Lương Châu. Trên đường sang Cô Tạng, lúc trú tại một quán trọ, vì sợ kinh bị thất lạc, Ngài bỏ các quyển kinh vào trong gối nằm. Tối đến, dường như có người xô Ngài xuống đất. Tỉnh dậy, Ngài nghĩ rằng đó là bọn ăn trộm. Song, việc này xảy ra ba đêm liền. Ðêm thứ tư, trong hư không chợt có tiếng bảo:

- Ðây là kinh điển giải thoát của Như Lai, sao lại lót đầu mà nằm?

Nghe lời này, Ngài liền tỉnh ngộ, khởi tâm sám hối, cung kính lễ bái, và đặt kinh điển lên chỗ cao. Ðêm hôm đó, có ăn trộm đến, định đánh cắp kinh điển, nhưng không tài nào khiêng nổi vì kinh điển quá nặng. Sáng hôm sau, tỉnh dậy, Ngài mang kinh điển rời khỏi nơi đó. Thấy Ngài ung dung mang kinh điển, bọn trộm cướp sửng sốt, xưng tán Ngài là bậc thánh nhân, nên chạy đến cầu sám hối.

Ðương thời, Hà Tây Vương là Mông Tốn đã bình định xong Ðôn Hoàng. Hà Tây Vương vốn tín phụng Phật pháp, và có chí muốn hoằng dương chánh giáo. Nghe tin Ngài đến Ðôn Hoàng, Hà Tây Vương bèn cung thỉnh vào trú nơi vườn thượng uyển ở Lương Châu, và cúng dường thâm hậu, cùng cầu thỉnh Ngài phiên dịch kinh điển. Song, vì chưa thông tiếng Tàu, lại cũng không có ai giúp đỡ, nên Ngài không thể đáp ứng lời thỉnh cầu dịch kinh, mà trú nơi đó để học tiếng Tàu trong ba năm.

Ðược Mông Tốn tôn sùng vì Ngài là một vị thường hiển hiện đạo thuật linh dị, giống như ngài Phật Ðồ Trừng được Thạch Lặc và Thạch Hổ cung kính. Lần nọ, Ngài bảo Mông Tốn:

- Quỷ quái đã vào tụ lạc, thì chẳng bao lâu sẽ có tai họa phát sanh trong nước.

Vì chưa từng thấy quỷ, nên Mông Tốn không tin. Song, nhờ Ngài tụng thần chú gia trì, khiến quỷ hiển hiện, nên Mông Tốn rất kinh hoàng sửng sốt. Ngài bảo:

- Phải thành tâm chuyên trì trai giới, rồi tụng thần chú, thì quỷ quái sẽ bỏ đi.

Kế đến, Ngài thi thiết thần chú trong ba ngày liên tiếp, khiến loài quỷ quái đều bỏ đi, nên trong nước được bình an. Tận mắt thấy việc này, Mông Tốn biết đó đều nhờ năng lực đạo thuật của Ngài, nên lại càng tôn sùng hậu đãi.

Năm 429, Mông Tốn vượt sông Hoàng Hà, chinh phạt nước của Tần Vương và Khuất Phục Mộ Mạt. Mông Tôn sai thái tử Hưng Quốc đi tiền phong. Khuất Phục Mộ Mạt sau này phản công phá thành, và bắt được Hưng Quốc. Năm 430, Hách Liên của nước Hạ công hạ được Khuất Phục Mộ Mạt, và khiến cho Tây Tần bị diệt vong. Song, trong chiến loạn thái tử Hưng Quốc bị tử trận. Tiếp được hung tin, Mông Tốn phẫn uất tức giận, bảo:

- Phụng sự Phật pháp, mà không được quả báo lành!

Do đó, Mông Tôn bắt những sa môn dưới năm mươi tuổi đều phải hoàn tục. Lịnh này được ban ra thì tượng đá mẹ của Mông Tốn (cao mười sáu thước), chợt rơi nước mắt. Lại nữa, nhờ Ngài ra sức khuyên nhủ, nên Mông Tốn từ từ chuyển tâm sám hối, bãi bỏ lịnh trên. Vì vậy, Phật pháp ở vùng Bắc Lương đưọc tiếp tục phát triển.

Thác Bạt Ðảo ở Bắc Ngụy (tức Thái Võ Ðế, 424-451) nghe chú thuật của Ngài rất thù thắng, nên phái sứ giả sang cung thỉnh Ngài về triều, và bảo Mông Tốn:

- Nếu không cho thỉnh ngài Ðàm Vô Sấm, thì sẽ khởi binh sang công phá Bắc Lương.

Bắc Lương là một nước nhược tiểu, nên đối với Bắc Ngụy, Mông Tốn rất nể sợ. Song, Mông Tốn lại chẳng đành lòng để cho ngài Ðàm Vô Sấm đi. Bắc Ngụy Thái Võ Ðế lại sai sứ Công Bình Công, Quý Thuận mang chín mân lễ vật sang Bắc Lương, quyết tâm ngưỡng thỉnh ngài Ðàm Vô Sấm:

- Nghe nói pháp sư Ðàm Vô Sấm đang ở tại nước của Ðại Vương. Bổn quốc muốn thỉnh Pháp Sư về triều để thuyết giảng Phật pháp. Xin Ðại Vương hãy thuận lòng mà nghinh tống pháp sư Ðàm Vô Sấm đi.

Trong buổi yến tiệc đãi sứ giả Quý Thuận, Mông Tốn nói:

- Lão thần Tây Phiên Mông Tốn phụng sắc triều đình Bắc Ngụy, tuyệt chẳng dám trái nghịch, mà Thiên Tử lại nghe lời sai lầm của người khác, khiến bức bách tôi giao Ðàm Vô Sấm. Trước kia, quan thượng thư của Bắc Ngụy đã đến nơi đây thỉnh cầu, và bây giờ lại phái tôn sứ giả sang tương cầu nữa. Ðàm Vô Sấm vốn là bậc thầy, nên chúng tôi quyết sống chết với nhau.

Quý Thuận bảo:

- Triều đình Bắc Ngụy đã đem nhiều phẩm vật sang tặng vua Bắc Lương. Sao Ðại Vương lại vì một vị tăng người Thiên Trúc mà bỏ đi công nghiệp bấy lâu nay! Xin Ðại Vương hãy suy nghĩ cho kỹ. Vua Bắc Ngụy thật chân thành tận ý.

Vì vẫn kiên quyết không chịu nhượng ngài Ðàm Vô Sấm nên Mông Tốn bảo:

- Lời của ông thật xảo diệu, giống như Tô Tần đời Chiến Quốc. E rằng chẳng phải là lời chân thật.

Mông Tốn bảo với sứ giả rằng vì ngài Ðàm Vô Sấm là bậc thầy, nên quyết cùng sống chết. Thật ra, Mông Tốn chỉ muốn lợi dụng chú thuật của ngài Ðàm Vô Sấm để giữ vững ngai vàng, nên không muốn cho Ngài sang Bắc Ngụy.

Năm 433, vì muốn trở lại Tây Vực để cầu thỉnh phần cuối của kinh Niết Bàn, nên Ngài cáo biệt với Mông Tốn. Hoài nghi rằng Ngài bỏ Bắc Lương mà sang Bắc Ngụy, nên Mông Tốn mật sai người giả trạng mang châu báu và lương thực đến tặng, rồi lập mưu kế giết Ngài. Trước ngày lên đường, Ngài rơi lệ cáo từ đại chúng:

- Nghiệp báo của tôi sắp đến, mà thánh nhân cũng không thể cứu được. Song, tôi đã quyết định hành theo lời nguyện, tức sang Tây Vực để cầu phần cuối của kinh Niết Bàn, nên không thể tiếp tục ở lại nơi đây!

Ði được khoảng bốn mươi dặm, quả nhiên Mông Tốn phái thích khách giết ngài Ðàm Vô Sấm trên đường. Bấy giờ ngài Ðàm Vô Sấm đưọc bốn mươi chín tuổi.

Tin tức vừa lan truyền, thì tăng tục xa gần đến mến tiếc thương xót cho Ngài. Sau này, các quan triều tả hữu, ban ngày thấy rõ rất nhiều quỷ thần mang gươm kiếm đến chém Mông Tốn. Vào tháng tư năm 433, Mông Tốn bị bịnh mà chết.

Ngài Ðàm Vô Sấm, tự thông giới luật, lại có tài năng phiên dịch kinh điển, cùng có năng lực thần dị phi phàm.

Theo quyển 'Cao Tăng Truyện', lúc trú tại Cô Tạng, có rất nhiều người chân thành nghiêm túc thỉnh cầu ngài Ðàm Vô Sấm truyền giới Bồ Tát. Sa môn Ðạo Tấn tại Trường Dịch, muốn cầu giới Bồ Tát. Ngài bảo:

- Tạm thời hãy sám hối tội chướng, rồi sẽ bàn luận sau!

Nghe lời này, trong bảy ngày đêm, Ðạo Tấn tinh cần sám hối. Qua ngày thứ tám, Ðạo Tấn bèn đến cầu giới. Vừa thấy Ðạo Tấn, Ngài phát nộ dữ dội. Thấy nghiệp chướng của mình chưa được tiêu trừ, Ðạo Tấn lại dốc toàn tâm lực chuyên tu thiền định suốt ba năm liền, rồi ân cần sám hối. Ðêm nọ, Ðạo Tấn mơ thấy Phật Thích Ca cùng chư Bồ Tát đến ban giới pháp. Ngày hôm sau, Ðạo Tấn lại đến cầu thọ giới. Thấy Ðạo Tấn xa xa đi đến, ngài Ðàm Vô Sấm bảo:

- Lành thay! Ngươi đã được cảm ứng mà thọ giới pháp, tức đã đắc được giới thể! Hôm nay, Ta sẽ chứng minh cho ngươi!

Nói xong, trước tượng Phật, Ngài giảng giải giới tướng cho Ðạo Tấn nghe. Ðạo Lãng, người soạn viết bài tựa về kinh Ðại Niết Bàn, vào đêm hôm ấy cũng thấy rõ giấc mộng đó. Tuy hạ lạp cao, nhưng cảm thấy giới hạnh thô thiển, nên Ðạo Lãng phát nguyện làm sư đệ của Ðạo Tấn. Trước và sau Ðạo Tấn, có hơn một ngàn người y theo Ngài để thọ giới Bồ Tát.

Theo quyển 'Xuất Tam Tạng Ký Tập', những kinh điển do ngài Ðàm Vô Sấm phiên dịch như sau: Kinh Ðại Bát Niết Bàn (36 quyển), kinh Phương Ðẳng Ðại Tập (29 quyển), kinh Phuơng Ðẳng Vương Hư Không Tạng (5 quyển), kinh Phương Ðẳng Ðại Vân (4 quyển), kinh Bi Hoa (10 quyển), kinh Kim Quang Minh (4 quyển), kinh Hải Long Vương (4 quyển), kinh Bồ Tát Ðịa Trì (8 quyển), Bồ Tát Giới Bổn (1 quyển), kinh Ưu Bà Tắc Giới Bổn (7 quyển), kinh Bồ Tát Giới (8 quyển), Bồ Tát Giới Ưu Bà Tắc Giới Ðàn Văn (1 quyển).

Vào giữa thế kỷ thứ tư, ngài Cưu Ma La Thập đang tu học tại nước Kế Tân, kinh Niết Bàn vẫn chưa được truyền sang nơi đó. Lúc trở về nưóc Quy Từ, ngài Cưu Ma La Thập cũng chưa thấy qua kinh Niết Bàn. Từ năm 350 đến năm 400, có rất nhiều bản kinh Niết Bàn khác nhau. Ngài Pháp Hiển đã từng mang về một quyển kinh Niết Bàn. Năm 417, Phật Ðà Bạt Ðà La cùng thầy Bảo Vân phiên dịch ra sáu quyển kinh Niết Bàn.

Năm 433, nghe pháp sư Ðàm Vô Phát bảo rằng bộ kinh Niết Bàn chưa đưọc dịch hành chỉnh đầy đủ, nên ngài Ðàm Vô Sấm mới phát tâm trở về Tây Vực để cầu phần sau của kinh Niết Bàn, nhưng lại gặp nạn mà chết.

Kế thừa chí nguyện tầm cầu phần sau của kinh Niết Bàn có thầy Ðạo Phổ (vốn người nước Cao Xương, tinh thông ngôn ngữ của sáu nước) ở chùa Ðạo Tràng. Thể theo sắc lịnh của Tống Văn Ðế, thầy Ðạo Phổ dẫn đoàn sứ giả mười người, theo thuyền để qua Tây Vức. Song, giữa đường gặp sóng gió nên thuyền bị trôi dạt đến Quảng Quận. Thầy Ðạo Phổ vì bị thương nơi bàn chân, rồi nhiễm bịnh mà thị tịch. Trước lúc lâm chung thầy Ðạo Phổ bảo:

- Ðất Tống không có duyên với phần sau của kinh Niết Bàn.

Ðến đời Ðường Lân Ðức (664-665), luật sư Hội Ninh ở Thành Ðô, thuộc ích-châu, theo thuyền đi cầu pháp, tức từ Nam Hải đến nước Ha Lăng Châu (Java), và lưu trú nơi đó qua ba năm, rồi cùng sa môn Nhã Na Bạt Ðà La (Trí Hiền) phiên dịch phần sau của kinh Niết Bàn. Ðệ tử của sa môn Nhã Na Bạt Ðà La là Vận Kỳ mang phần kinh Niết Bàn này đến Trường An. Phần cuối của kinh Niết Bàn gồm có: Kiều Trần Như Phẩm dư phần, Di Giáo Phẩm, Ứng Tận Hoàn Nguyên Phẩm, Cơ Cảm Trà Tỳ Phẩm, Thánh Khu Khuếch Nhuận Phẩm.

Sau khi kinh Niết Bàn được phiên dịch, tư tưởng 'tất cả chúng sanh đều có Phật', phát triển mạnh mẽ, khiến cho Ðạo Sanh phát khởi chủ trương 'đốn ngộ thành Phật', và thuyết tiệm tu của Huệ Quán ra đời.

Mông Tốn không những thỉnh ngài Ðàm Vô Sấm dịch kinh Niết Bàn và những bộ kinh khác, mà ông còn thỉnh sa môn Phù Ðà Bạt Ma (Buddhavarman) người Thiên Trúc dịch kinh Ðại Tỳ Bà Sa. Sa môn Phù Ðà Bạt Ma; Tàu dịch là Ðạo Thái, tài năng kiệt xuất, tánh tình khí khái, điềm đạm, thông minh kiệt xuất hơn người, thường học nhiều ngôn ngữ. Thấy kinh Bát Nhã đã được phiên dịch và phổ biến ở Trung Thổ, nhưng ba tạng chín bộ A Tỳ Ðàm của tiểu thừa vẫn chưa được phiên dịch đày đủ, nên sa môn Phù Ðà Bạt Ma không quản ngại đuờng xá xa xôi hiểm nguy mà vượt ngọn Thông Lĩnh, qua nước Kế Tân, thỉnh lấy kinh tiếng Phạn hơn một trăm ngàn câu kệ, rồi sang Lương Châu. Mông Tốn nghe tiếng bèn thỉnh sa môn Phù Ðà Bạt Ma tiến hành phiên dịch kinh điển. Vì sự phòng ngự ở chung quanh thành Lương Châu không được kiên cố, nên Mông Tốn thỉnh sa môn Phù Ðà Bạt Ma vào trong chùa Nhàn Dự Cung (nơi đây, ngài Ðàm Vô Sấm đã từng phiên dịch kinh Ðại Niết Bàn và các kinh điển khác). Từ trung tuần tháng tư năm 425 đến thượng tuần tháng bảy năm 427 thì dịch xong kinh Ðại Tỳ Bà Sa ra một trăm quyển. Ðương thời, có hơn ba trăm người như sa môn Ðạo Lãng, Trí Sung, v.v... nhận trọng trách kiểm thảo kinh văn.

Mông Tốn lại thường thỉnh các sa môn người Thiên Trúc, Tây Vực, v.v... đến Lương Châu phiên dịch kinh điển. Ông ta thường cùng các vị tu tiên và sa môn đàm luận về nghĩa lý huyền học. Ðối với tôn giáo, một bên ông ta lợi dụng, và một bên lại ủng hộ.

Mông Tốn có một người em, tên là An Dương Hầu. Ông ta tụng đọc rất nhiều kinh điển, và thường giữ năm giới cẩn mật. Vì có chí cầu pháp, nên Ông sang nước Vu Ðiền, đến chùa Cù Ma Ðế Ðại Tự, theo học với sa môn Phật Ðà Tư Na (Buddhasena) người Thiên Trúc. Sau này, Ông đến nước Cao Xương, thỉnh được kinh Quán Thế Âm và Quán Di Lặc, rồi phiên dịch hai quyển kinh này. Ông lại trở về Lương Châu. Năm 439, lúc Bắc Ngụy công phá Lương Châu, Ông lánh nạn sang miền Giang Nam, và không giao tiếp với ai, chỉ thường đi tham quan các cảnh chùa chiền tự tháp. Thể theo lời cầu thỉnh của sư cô Huệ Tuấn ở chùa Trúc Viên, Ông dịch kinh Thiền Yếu Bí Mật Trị Bệnh, vào năm 455. Vì thông thạo tiếng Phạn và tiếng Tàu, nên Ông dịch rất nhiều kinh như: Phật Thuyết Bát Trai Giới, Phật Thuyết Quán Di Lặc Bồ Tát Thượng Sanh Ðâu Suất Thiên, Phật Thuyết Tịnh Phạn Vương Bát Niết Bàn, Phật Thuyết Mạt La Vương, Phật Thuyết Chiên Ðà Việt Quốc Vương, Phật Thuyết Ma Ðạt Quốc Vương, Phật Thuyết Phật Ðại Tăng Ðại Kinh, Phật Thuyết Da Kỳ, Phật Thuyết Ngũ Vô Phản Phục, Phật Thuyết Tấn Học, Ðệ Tử Tử Phục Sanh, Phật Thuyết Ca Diếp Cấm Giới, Phật Thuyết Ngũ Khủng Bố Thế, Thiền Yếu Bí Mật Trị Bịnh.

25. Ngài Tăng Già Bạt Trừng (Sanghabhata, dịch là Chúng Hiện).

Ngài là người nước Kế Tân (là nơi thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ rất được thạnh hành). Ngài thường tham phương tầm cầu danh sư, uyên bác hết kinh điển. Ngài tinh tường quán thông yếu chỉ của bộ A Tỳ Ðàm, Tỳ Bà Sa. Năm 381, Ngài đến Trường An. Ðến nơi, ngài Tăng Già Bạt Trừng cùng với các sa môn như Ðàm Ma Nan Ðề, Tăng Già Ðề Bà, Phật Ðồ La Sát dịch bộ luận A Tỳ Ðàm Tỳ Bà Sa (hay Tạp A Tỳ Ðàm Tâm Luận).

26. Ngài Ðàm Ma Da Xá (Dharmayasas).

Ngài Ðàm Ma Da Xá, dịch là Pháp Minh, vốn người nước Kế Tân, hiếu học từ thuở nhỏ. Năm mười bốn tuổi, theo tu học với ngài Phất Nhã Ða La. Lúc trưởng thành, khí khái cao vợi, thần huệ minh mẫn; xem qua kinh luật liền hiểu rõ thâm sâu hơn người; hun đúc tư tưởng, nhập cửa thiền, để tâm nơi bảy phần giác. Thời nhơn thường gọi Ngài là Phù Ðầu Bà Ðà. Ngài thường đến khe núi rừng hoang, mà chẳng sợ hổ sói, để đơn độc quán xét tâm niệm vọng tưởng. Bấy giờ, mỗi lần ngồi dưới các gốc cây, Ngài luôn tự trách rằng đã ba mươi tuổi mà vẫn chưa chứng quả, thì sao lại giải đãi! Do đó, không ăn không ngủ, ngày đêm chuyên cần khắc khổ sám hối nghiệp tội. Ðêm nọ, Ngài mơ thấy Bác Xoa Thiên Vương bảo:

- Sa môn thường phải có chí nguyện hoằng dương Phật pháp, rộng độ quần sinh. Sao Ngài lại chấp nê tiểu tiết, chỉ đơn độc tự tu tự độ. Các chúng duyên nếu đầy đủ thì sẽ thành thục, chẳng nên ép tâm cần cầu, khiến không thể chứng quả.

Tỉnh dậy, Ngài bèn phát tâm đi khắp các lân quốc mà truyền đạo. Vào những năm đầu đời Tấn Long An (397-401), Ngài đến Quảng Châu, trú tại chùa Bạch Sa. Ngài thường tụng bộ luật Tỳ Bà Sa, khiến chúng nhân cảm kích mà gọi Ngài là Ðại Tỳ Bà Sa. Bấy giờ, Ngài đã được tám mươi lăm tuổi, và có khoảng tám mươi lăm đồ chúng. Do các thiện tín như thanh tín nữ Trương Phổ Minh thỉnh cầu, Ngài thuyết về pháp duyên khởi. Lúc ấy, Ngài cũng dịch được một quyển kinh.

Trong niên hiệu Nghĩa Hi (405-418), Ngài đến Trường An, và gặp sa môn người Thiên Trúc là Ðàm Ma Quật Ða cũng đồng đến đó. Bấy giờ vua Dao Hưng rất tôn sùng Phật pháp, nên thấy Ngài đến bèn ân cần hậu đãi cúng dường. Ngài lại cùng với Ðàm Ma Quật Ða dịch bộ Xá Lợi Phất A Tỳ Ðàm, từ năm 407 đến năm 414 thì hoàn tất, được hai mươi hai quyển. Thái tử Dao Hoằng đích thân duyệt xem. Thầy Ðạo Tiêu viết lời tựa.

Sau này, Ngài xuôi vào miền nam, đến Giang Lăng, trú tại chùa Tân Tự, hoằng pháp thiền mạnh mẽ. Bấy giờ, có ba trăm sĩ thứ đến nghe Ngài giảng kinh pháp. Mới đầu họ không tin tưởng, nhưng vừa gặp mặt Ngài thì đều hân hoan cảm kích. Ngài thường bảo rằng một thầy một đệ tử, tu đạo đắc được quả A La Hán. Lần nọ, đang đóng cửa chùa để tọa thiền, Ngài chợt thấy năm sáu vị sa môn từ ngoài đi vào, rồi bay qua lại, tới dưới gốc cây mà tọa thiền. Ngài thường giao tiếp với các thần minh, tuy có dấu chân mà không thấy hình, nên thời nhân đều bảo rằng Ngài đã chứng quả thánh.

Ðến đời Tống Nguyên Gia (424-453), Ngài từ biệt trở về Tây Vực, rồi không ai biết chung cuộc ra sao.

Ngài Ðàm Ma Da Xá có đệ tử là Pháp Ðộ. Pháp Ðộ vốn là con của Trúc Bà Lặc. Trúc Bà Lặc thường qua Quảng Châu buôn bán. Trên đường đến Nam Khang, sinh hạ đứa con trai, nên Trúc Bà Lặc đặt tên là Nam Khang. Lớn lên đổi tên là Kim Già. Sau khi xuất gia được pháp danh là Pháp Ðộ. Pháp Ðộ tinh tường tiếng Phạn và tiếng Tàu, nên thường giúp ngài Ðàm Ma Da Xá chuyển ngữ dịch kinh. Pháp Ðộ là đệ tử thừa thọ pháp với ngài Ðàm Ma Da Xá đầu tiên nhất. Lúc ngài Ðàm Ma Da Xá trở về Tây Vực, Pháp Ðộ chủ xướng chuyên học giáo lý tiểu thừa, mà không đọc tụng kinh điển Phương Ðẳng; chỉ lễ Phật Thích Ca, chứ không lạy mười phương chư Phật; thường mang bình bát bằng đồng để dùng cơm chứ không dùng vật nào khác, rồi lại bắt ni chúng phải thường hành sám hối nghiệp tội. Ðương thời, ni chúng ở Ðông Ðộ và Giao Châu như Pháp Hoằng (con gái của quan Y Nhan Thuân ở Ðơn Dương) và Phổ Minh (con gái của thứ sử Trương Mục ở Giao Châu), v.v... thường đến thọ pháp nơi Pháp Ðộ.

 

27. Ngài Cầu Na Bạt Ma (Gunavarman).

Cầu Na Bạt Ma, dịch là Công Ðức Khải, người dòng Sát Lợi, gia thế làm vua trị nước Kế Tân. Ông nội tên là Ha Lê Bạt Ðà, (dịch là Sư Tử Hiền), tánh tình cương trực. Cha là Tăng Già A Nan, (dịch là Chúng Thiện). Nhờ thường ẩn cư tại rừng núi suối ngòi, năm mười bốn tuổi căn cơ kiến thức của ngài Cầu Na Bạt Ma thâm sâu xuất chúng. Tánh tình của Ngài nhân hậu, tôn sùng đạo đức, thường hành việc thiện. Người mẹ thường làm thịt những con dã thú, rồi bảo Ngài ăn. Ngài nói:

- Phàm loài vật có sanh mạng, thì không nên ăn.

Người mẹ tức giận bảo:

- Con cứ ăn đi. Mẹ sẽ chịu tội thế cho.

Ngày nọ, đang chiên dầu sôi, Ngài chợt làm đổ, khiến phỏng ngón tay, nên nói với người mẹ:

- Xin mẹ hãy chịu đau cho con.

Người mẹ bảo:

- Thân của con bị đau, làm sao mẹ thay thế cho được.

- Khổ trước mắt mà không thay thế cho con được, huống hồ là khổ trong ba đường ác!

Bà mẹ nghe lời này, bèn tỉnh ngộ, sám hối, suốt đời không còn sát sanh.

Năm mười tám tuổi, Ngài gặp một ông thầy xem tướng bảo:

- Năm ba mươi tuổi, Ngài sẽ đến một đại quốc ở phương nam, và được xưng tôn là bậc thầy. Nếu không thọ hưởng vinh hoa phú quý ở thế gian, thì sẽ chứng đạt thánh quả.

Năm hai mươi tuổi, Ngài xuất gia thọ giới cụ túc, thông suốt chín bộ kinh, hiểu thấu bốn bộ kinh A Hàm, thường tụng đọc kinh điển hơn triệu lời, thâm đạt luật phẩm, diệu nhập vào yếu chỉ thiền môn, khiến thời nhơn đều xưng tán là Tam Tạng Pháp Sư.

Năm Ngài được ba mươi tuổi. Vua nước Kế Tân băng hà mà không có con nối dõi. Quần thần hội nghị bảo nhau:

- Ngài Cầu Na Bạt Ma vốn là dòng dõi đế vương, lại có tài trí thâm sâu, đức cao trọng vọng. Chúng ta nên thỉnh Ngài hoàn tục mà lên ngôi vương vị.

Bàn luận xong, hơn cả trăm quần thần đến khẩn thỉnh ba lần, mà Ngài không chấp thuận. Sau đó, Ngài rời kinh đô, xa lánh thế tục, trú trong rừng núi hoang dã, đơn độc tu hành. Kế đến, Ngài tới nước Sư Tử hoằng hóa Phật pháp, khiến chánh giáo được hưng thịnh. Người có kiến thức thường bảo rằng Ngài đã chứng thánh quả. Oai nghi đoan chánh của Ngài khiến thú vật cũng phát tâm tu đạo.

Sau này, Ngài đến nước Xà Bà. Một ngày trước đó, hoàng thái hậu mơ thấy một đạo sĩ theo thuyền bay vào vương quốc. Hôm sau, quả nhiên bà ta thấy Ngài đến. Hoàng thái hậu cung kính thánh thể, rồi xin quy y thọ năm giới cấm. Hoàng thái hậu khuyên quốc vương:

- Do nhân duyên tiền kiếp mà làm mẹ con. Mẹ đã thọ giới rồi mà con vẫn chưa tín phụng Phật pháp. E sợ từ đây về sau, vì nhân đời này mà quả đời sau tình mẫu tử sẽ bị đoạt tuyệt.

Vì bị hoàng thái hậu ép buộc, nên quốc vương đành phải nghe lời của bà mẹ mà thọ giới, rồi dần dần tín phụng Phật pháp, tinh tấn tu hành. Lần nọ, nước lân bang cử quân xâm chiếm biên cảnh. Quốc vương bèn hỏi Ngài:

- Bọn giặc bên ngoài ỷ có thế lực mà xâm chiếm đất đai. Nếu cùng với chúng nghinh chiến thì ắt sẽ tổn thương sanh mạng rất nhiều. Nếu không chống cự thì họa mất nước sẽ đến. Nay chỉ quy mạng nơi Tôn Sư. Không biết Ngài có kế gì chăng.

- Bạo khấu khởi binh chiếm đất, tức tánh tình hung hãn. Song, xin Ðại Vương hãy khởi tâm từ bi, chớ khởi niệm muốn sát hại.

Quốc vương bèn thống lãnh quân sĩ an bài trận địa, nổi trống cờ để giao chiến với quân địch, khiến chúng đều thua chạy. Song, quốc vương bị giáo đâm vào đùi. Ngài bèn gia trì thần chú vào nước, rồi đưa cho quốc vương uống. Qua hôm sau thì quốc vương bình phục hẳn, nên càng thâm tín, và rất tri ân của Ngài. Quốc vương lại muốn xuất gia tu đạo, nên bảo với quần thần:

- Trẫm muốn xuất gia làm sa môn. Các khanh hãy tự tìm một vị minh quân khác.

Vì quần thần khẩn thỉnh van nài ba lần, nên quốc vương không nỡ bỏ đi, nhưng lại bảo họ:

- Trẫm có ba lời nguyện. Nếu các khanh hành được thì Trẫm sẽ ở lại trị quốc. Nguyện thứ nhất, trong vương quốc, mọi người phải tín phụng chư sa môn. Nguyện thứ hai, mọi người trong nước phải đoạn trừ tất cả việc giết hại. Nguyện thứ ba, tất cả tài sản trong nước đều chẩn cấp cho người nghèo hèn, bịnh tật.

Quần thần nghe lời này đều hân hoan vui mừng mà tín phụng y theo. Vì vậy, cả nước đều thọ giới quy y. Ðể tỏ lòng tôn kính, quốc vương đích thân xây tịnh xá cho Ngài cư trú. Ðang xây cất tịnh xá, quốc vương chợt bị thương cánh tay, nên Ngài phải tụng chú gia trì, khiến hôm sau được bình phục.

Danh đức hóa đạo của Ngài vang xa khắp nơi, khiến các quốc vương lân bang đều gởi sứ giả sang cầu thỉnh Ngài qua những nơi đó mà hoằng dương Phật pháp.

Bấy giờ tại kinh sư (Nam Kinh), Huệ Quán, Huệ Thông, v.v... nghe danh đức của ngài Cầu Na Bạt Ma, bèn viết sớ dâng lên triều đình. Vào tháng chín niên hiệu Nguyên Gia nguyên niên (424), họ dâng sớ lên Tống Văn Ðế, yêu cầu triều đình thỉnh ngài Cầu Na Bạt Ma sang Trung Thổ để hoằng dương chánh pháp. Tống Văn Ðế phê chuẩn, rồi ra lịnh cho thứ sử ở Giao Châu sắm sửa tàu thuyền, cùng với sa môn Pháp Trường, Ðạo Sung, v.v... đem thơ của nhà vua đến nước Xà Bà, thỉnh cầu ngài Cầu Na Bạt Ma tới nước Tống để xiển dương chánh giáo. Vì muốn tuyên dương thánh giáo, nên ngài Cầu Na Bạt Ma chấp thuận lời cầu thỉnh này, và không quản đường xá xa xôi mà đến đất Tống. Thế nên, Ngài theo thuyền của thương nhân Trúc Nan Ðề, hướng đến một tiểu quốc, rồi thuận theo gió mà tới Quảng Châu. Ðến nơi, Ngài viết thư cho Tống Văn Ðế:

- Gió nghiệp thổi đến đất Tống. Nay xin báo tin.

Tống Văn Ðế nhận được lá thư đó, biết là Ngài đã đến Nam Hải, nên lại ra lịnh cho thứ sử Châu Quận, nghinh tống Ngài về kinh sư. Trên đường đi, Ngài dừng lại tạm trú tại Thủy Hưng. Vùng núi Thủy Hưng đầy cả hổ sói. Hình thế của dãy núi đó lại cao vứt chót vót. Vì vậy, Ngài cho đổi tên núi là Linh Thứu. Cách chùa trên núi khoảng vài dặm, Ngài tự cất một thiền thất, mà âm thanh từ chùa không thể vang đến đó. Song, mỗi lần có tiếng kiểng đánh thì Ngài đều nghe, và trở về chùa. Chư tăng kẻ tục đều cung kính. Trong chùa có điện Bảo Nguyệt. Nơi phía tây của điện đó, Ngài tự tay vẽ hình tôn giả La Hầu La cùng tượng Phật Ðịnh Quang. Vẽ xong, vào mỗi buổi tối, tượng đều phóng ánh sáng không dứt, khiến thái thú Thái Mậu ở Thủy Hưng lại càng thêm kính trọng, ngưỡng mộ Ngài. Sau này, Thái Mậu chết. Ngài tự thân đến dinh phủ an ủi. Vài ngày sau, gia nhân mộng thấy Thái Mậu cùng chúng tăng thuyết pháp trong chùa. Song, tất cả đều do thần lực của Ngài gia hộ cả.

Dân chúng trong vùng núi Thủy Hưng vốn thuờng bị tai họa hổ sói. Từ khi cư trú nơi đó, ngày đêm kinh hành, lắm lúc gặp hổ sói, thì Ngài dùng tích trượng mà vỗ lên đầu của chúng, khiến chúng bỏ đi hết. Từ đó, khách vãng lai đến không còn bị trở ngại. Nhờ oai đức của Ngài, cứ trong mười người là có bảy tám người được cảm hóa tín phụng Phật pháp.

Lần nọ, Ngài nhập thiền định đã bao ngày mà chưa xả, nên tăng chúng trong chùa bèn sai một chú sa di đến đó để hầu cận. Chú tiểu vừa đến thì thấy một con sư tử trắng đang đứng trên nóc am thất, và trên hư không hoa sen xanh bay đầy khắp. Chú tiểu kinh hoàng la hoảng, thì mọi hiện cảnh đều biến mất. Những điềm linh dị thật vô phương tính kể, nhưng phần nhiều là như thế. Sau này, Tống Văn Ðế lại ban sắc lịnh, đôn đốc cầu thỉnh Ngài trở về kinh đô. Ngài theo thuyền về kinh đô Kiến Nghiệp vào tháng giêng năm 441. Ðích thân Tống Văn Ðế ra nghinh đón, vấn an. Bấy giờ Tống Văn Ðế hỏi:

- Ðệ tử thường trì giới không giết hại. Pháp Sư từ phương xa đến giáo hóa cõi này, vậy Ngài dùng pháp gì để huấn dụ?

- Ðạo tại tâm chớ chẳng tại vật. Pháp do mình chớ không do người. Sự tu trì trai giới của Hoàng Thượng khác với kẻ phàm dân. Họ thân kém danh liệt, ngôn từ mạng lịnh không oai. Nếu họ không tự khắc kỷ khổ tu thì làm sao trở thành người hiền lương được? Ðối với Hoàng Thượng, bốn biển là nhà, muôn dân là con. Một lời nói hiền lành của Ngài xuất ra liền khiến dân chúng hân hoan vui vẻ. Nếu Ngài thường ban bố chánh giáo lành thiện thì khiến chư thần đều hoan hỷ. Nếu Ngài không thường gia lực hình phạt lương dân vô tội, thì sẽ khiến mưa thuận gió hòa, và khí trời lạnh nóng đều thuận theo thời tiết, cùng trăm thứ lúa thóc và cỏ cây đều được tốt tươi. Trì trai giới như thế mới là quảng đại, và đức độ trì giới không giết hại cũng bao trùm khắp nơi. Sao lại cho rằng trong nửa ngày không giết sanh mạng của một con vật nào, mới gọi đó là trì trai!

- Tâm của tục nhân mê mờ xa cách đạo lý muôn trùng, nên thường bảo rằng giáo lý của đạo Phật là lời hư vọng. Ngược lại, chư sa môn thường chấp nê nơi chương cú câu kệ. Những lời của Pháp Sư thật làm khai ngộ sáng tâm, và hợp với lời lẽ của trời người!

Tống Văn Ðế lại đưa Ngài về trú tại chùa Kỳ Hoàn, cúng dường thâm hậu. Vương công danh sĩ đều tôn sùng. Nơi đó, Ngài khai giảng kinh Pháp Hoa cùng Thập Ðịa. Người người kéo đến nghe pháp đông đầy.

Do thầy Huệ Nghĩa ở trong chùa cung thỉnh, Ngài dịch quyển Bồ Tát Giới, có hai mươi tám phẩm. Sau này, đệ tử dịch thêm hai phẩm nữa. Tổng cộng là ba mươi phẩm, được gọi là Bồ Tát Giới Ðịa.

Thứ sử Vương Trung Ðức ở Bành Thành thỉnh sa môn ngoại quốc là Y Diệp Ba La dịch kinh Tạp Tâm. Vì nhân duyên trở ngại nên Y Diệp Ba La dịch đến Trạch Phẩm thì ngưng. Do đó Vuơng Trung Ðức thỉnh Ngài dịch Hậu Phẩm, khiến bộ kinh Tạp Tâm được dịch ra mười ba quyển. Ngài lại dịch quyển Tứ Phần Luật Yết Ma, Uư Bà Tắc Ngũ Giới, Lược Luận Uu Bà Tắc nhị thập tứ giới. Tổng cộng là hai mươi sáu quyển. Văn nghĩa tinh tường, và Phạn-Hán không sai sót.

Ni chúng như Huệ Quả, Tịnh Âm, v.v... từ chùa Ảnh Phước đến bạch với Ngài:

- Sáu năm trước, tám sư cô từ nước Sư Tử qua đến kinh sư bảo rằng ở đất Tống, ni chúng chưa có. Thế nên, khi ni chúng đăng đàn thọ giới, thì e rằng giới phẩm không được đắc trọn vẹn.

Ngài bảo:

- Giới pháp phát xuất từ chư đại tăng (ni chúng phải y chỉ theo chư đại tăng mà thọ giới pháp). Nếu không theo bổn sự mà hành pháp yết ma thì vô phương đắc giới. Hãy xem lại duyên xuất gia của bà Ðại Ái Ðạo thì biết rõ.

Chư ni sợ giới phẩm chưa được vẹn toàn nên ân cần cầu thỉnh Ngài ban giới pháp. Ngài bèn tùy hỷ chấp thuận. Song, vì ni chúng ở đất Tống chưa đủ niên lạp, nên phải thỉnh thêm các ni sư ngoại quốc đến theo chư tăng truyền giới.

Mùa hạ năm đó, Ngài an cư kiết hạ tại chùa Bổn Lâm Hạ Tự. Ðương thời, có một đàn việt đem hoa cúng dường. Những cánh hoa cạnh tòa ngồi của Ngài, trải qua bao ngày vẫn còn tươi, khiến đại chúng ai ai cũng tôn sùng thánh thể.

Sau mùa hạ, Ngài trở về chùa Kỳ Hoàn. Ngày hai mươi tám tháng chín năm đó, dùng trai chưa xong, thì Ngài trở vào điện các. Sau này, có người đệ tử đến, thấy Ngài an nhiên thị tịch. Ngài thọ sáu mươi lăm tuổi. Trước khi nhập tịch, Ngài có viết ba mươi sáu bài kệ, và tự bảo rằng đã chứng nhị quả A La Hán (Tư Ðà Hàm), rồi đưa thơ cho đệ tử A Sa La, bảo:

- Sau khi Ta mất, có thể đưa thư này cho tăng chúng người Thiên Trúc và tăng chúng tại nơi đây xem qua.

Lúc nhập tịch, Ngài ngồi xếp bằng đoan tọa trên sàng thiền, gương mặt vẫn hồng hào như nhập định. Hàng ngàn tăng chúng và cư sĩ đến dự lễ an táng. Họ lại ngửi thấy mùi hương lạ xông lên, và thấy một con rồng dài bốn mươi thước từ nơi nhục thân của Ngài mà bay lên hư không. Bấy giờ bốn con lân, phượng, long, quy đồng xuất hiện. Trước Nam Lâm Giới Ðàn, y theo phong tục Thiên Trúc mà làm lễ trà tỳ nhục thân của Ngài. Lúc ấy mây ngũ sắc chợt hiện trên bầu trời xanh trong, khiến đạo tục ai nấy đều tán thán điềm lạ. Nơi đó, chúng tăng lập tháp thờ xá lợi của ngài Cầu Na Bạt Ma.

Lúc đến kinh sư, Tống Văn Ðế muốn theo Ngài thọ giới Bồ Tát. Vì phải lo chống giặc ngoại xâm, nên Tống Văn Ðế chưa kịp cầu thỉnh, thì ngài Cầu Na Bạt Ma đã nhập tịch, khiến ông ta đau lòng nuối tiếc. Tống Văn Ðế bèn ra lịnh cho chư tăng đọc bài kệ di chúc của ngài Cầu Na Bạt Ma để lại. Kệ viết:" Trước đảnh lễ Tam Bảo, tịnh giới chư thượng tọa. Cõi trược nhiều xiểm khúc, hu ngụy không tín thành, mê hoặc không hiểu chơn, khinh chê người đức hạnh. Vì vậy chư hiền thánh, hiện thân mà ẩn tích. Ta Cầu Na Bạt Ma, vận mạng thời đã đến, được gặt thiện công đức, nay thuyết lời chân thật, chẳng dùng tâm cong vạy, hy vọng kẻ cầu danh, và khuyên người giải đãi, tăng trưởng chư Phật pháp; đại pháp lực như thế, nhân giả hãy lắng nghe. Xưa trú nơi rừng hoang, thấy được các tử thi, ruột gan trùng ăn hoại, máu mũ chảy hôi hám. Tâm thành duyên nơi đó, biết thân vốn như thế; thường thấy thân tướng này, tham sâu không sợ lửa, vô số loại như thế; tu tập quán tử thi, xả bỏ cái nghe biết, y chỉ trong rừng rậm, ngày đêm chuyên tinh tấn, chánh quán thường không quên, cảnh giới hiện trước mắt, giống như xem mặt gương, ngưòi và ta đồng nhau; do đó tâm tịch tĩnh, thân nhẹ rất tịnh minh, trong sáng tâm an lạc, tăng trưởng đại hoan hỷ, tức không sanh chấp trước; biến thành cốt tiêu tướng, bạch cốt hiện trước mắt; hủy hoại chân tay rụng, bạch cốt tất cũng diệt; vô cấu trí sáng ngời, điều phục tư pháp tướng; bấy giờ đắc như thế, thân an rất nhu nhuyến; phương tiện tu như thế, tiến đến chuyển tăng trưởng; vi trần niệm niệm diệt, hoại sắc chánh niệm pháp, đó là thân cứu cánh, sao duyên khởi tham dục! Biết nhân của thọ sanh, như cá tham mồi câu, nó thọ vô lượng khổ; niệm quán sát na diệt, biết rõ chỗ nương kia, từ tâm vượn khỉ khởi; nghiệp thêm nghiệp quả báo, theo duyên niệm niệm diệt; tâm sở biết bao loại, gọi là pháp sai biệt, tức là niệm tư huệ; từng bước tu trọn vẹn, quán bao loại pháp tướng, tâm này chuyển rõ ràng; Ta ngay trong ngọn lửa, thấy rõ bốn niệm xứ; luật hạnh từ đó khởi, nhiếp tâm duyên trụ lại; khổ như kiếm lửa nóng, vì do khát ái chuyển; ái tận đạt niết bàn; thấy rõ khắp ba cõi, lửa cháy thiêu tử thi, hình thể thật nhỏ nhoi; vui nghỉ nơi phương tiện, thân từ từ sung mãn; thắng diệu tướng chúng sanh, đảnh nhẫn cũng như thế, là do tâm mình khởi; chân thật chánh phương tiện, từ từ lược cảnh giới, tịch diệt lạc tăng trưởng, đắc pháp thế đệ nhất; một niệm duyên chân đế, từng bậc pháp nhẫn sanh, gọi là đạo vô lậu; vọng tưởng cùng trần cảnh, danh tự tất xa rời; cảnh giới nghĩa chân đế, trừ não được trong sáng, thành tựu quả tam muội; rời cấu duyên trong sạch, không vọt cũng không mất, huệ tịnh như trăng sáng, lặng lẽ chánh an trụ, thuần nhất tướng tịch diệt, chẳng phải nơi tuyên thuyết, chỉ Phật năng chứng biết; Na Ba A Tỳ Ðàm, thuyết năm quả nhân duyên, thật nghĩa biết tu hành, chấp danh không thể thấy, chư luận bao loại khác; tu hành lý không hai, thiên chấp có thị phi, người đạt không ngược tranh; tu hành các diệu tướng, nay Ta không tuyên thuyết, sợ người khởi vọng tưởng, cuồng hoặc mê thế gian; nơi kia tu lợi tướng, Ta đã thuyết ít phần; nếu người có trí sáng, biết rằng do duyên khởi; nơi nước Ma La Bà, đắc được sơ quả thánh; A Lan Nhã sơn tự, đạo tích tu viễn ly; sau nơi nước Sư Tử, thôn tên Kiếp Ba Lợi, tấn tu đắc nhị quả, gọi là Tư Ðà Hàm; đó là danh rời nạn, chướng tu đạo ly dục; thấy Ta tu viễn ly, biết là nơi không nhàn, đều sanh tâm hy hữu; lợi dưỡng liên tiếp đến, Ta thấy như lửa độc, tâm sanh thật nhàm chán; lánh loạn biển phù du, Xà Bà cùng Lâm Ấp, nghiệp hành gió đẩy đưa, tùy duyên nơi nước Tống; vì vậy trong các nước, tùy lực hưng Phật pháp; chẳng hỏi phải nên hỏi, hãy thật chân thật quán, nay thân này diệt tận, tịch như ngọn lửa tắt!

28. Ngài Cầu Na Bạt Ðà La (Gunabhadra).

Cầu Na Bạt Ðà La dịch là Công Ðức Hiền, người trung Thiên Trúc. Lúc về già do tu học đại thừa nên được hiển danh, khiến người người đều xưng gọi là Ma Ha Diễn. Ngài vốn thuộc dòng bà la môn. Ðối với thiên văn, ngôn ngữ, toán thuật, y học, chú thuật, v.v... các loại học vấn đều uyên bác tinh tường. Lần nọ, xem duyệt tường tận quyển 'A Tỳ Ðàm Tạp Tâm Luận', Ngài bèn khâm phục yếu chỉ đại đạo, nên bắt đầu nghiên cứu Phật pháp. Song, vì gia đình vốn là ngoại đạo, nên cấm chỉ việc học Phật pháp. Vì tranh luận với người nhà không được, nên Ngài đành phải bỏ nhà ra đi khắp nơi, để tham tầm minh sư học Phật pháp. Sau này, Ngài xuống tóc xuất gia, chuyên tâm quyết chí nghiên cứu tu học Phật pháp. Lúc thọ giới cụ túc vào năm hai mươi tuổi, Ngài đã thông suốt ba tạng kinh, luật, luận. Ðối xử với người, Ngài luôn có tâm từ bi nhu hòa, kính cẩn. Ðối với thầy bổn sư, Ngài thường tự khởi tâm chân thành hầu hạ. Chẳng bao lâu, Ngài từ biệt thầy bổn sư giáo tiểu thừa, và tiếp tục học tập giáo đại thừa.

Lần nọ, thầy bổn sư bảo Ngài vào rương chứa kinh để mang kinh điển ra. Ngài bèn đến lấy ra kinh 'Ðại Phẩm Hoa Nghiêm', rồi đem đến cho vị thầy. Thầy bổn sư bảo:

- Con cùng pháp đại thừa thật có duyên thâm sâu!

Nói xong, bèn khuyến khích Ngài duyệt xem bộ kinh đó. Tụng thuộc xong, Ngài bèn tuyên giảng bộ kinh này, mà không ai có thể chất vấn được.

Thọ giới Bồ Tát xong, Ngài trở về nhà khuyên nhủ cha mẹ quy y Phật pháp:

- Cha mẹ cứ khăng khăng giữ theo ngoại đạo thì Thầy sẽ không trở về nữa, vì chẳng làm được lợi ích gì. Ngược lại, cha mẹ nếu quy y Tam Bảo thì Thầy sẽ thường thường trở về nhà.

Nghe lời này, cha mẹ của Ngài cảm động, mà chấp thuận bỏ tín ngưỡng ngoại đạo để quy y Tam Bảo.

Ngài thường qua các nước như Sư Tử, v.v..., nhưng sau này tự cảm thấy có duyên với đông phương, nên theo thương thuyền đi về hướng đông. Ngày nọ, gió đột nhiên ngừng thổi, khiến thuyền ngưng chạy. Người trên thuyền ưu sầu lo lắng vì nước dự trữ đã hết. Ngài bảo:

- Chúng ta hãy đồng tâm hiệp lực mà chí thành xưng niệm danh hiệu mười phương chư Phật, thì chắc sẽ được cảm ứng.

Nói xong, Ngài cùng người trên thuyền đọc tụng kinh cú không ngừng. Chẳng bao lâu, gió chợt thổi đến, mây đen vần vũ kín trên nền trời, rồi mưa đổ xuống ào ạt, khiến mọi người đều có nưóc uống. Nhờ tâm chân thành của Ngài mới có sự linh ứng như thế.

Năm 435, Ngài đến Quảng Châu. Ðược sớ do thứ sử Xa Lãng dâng trình, Tống Văn Ðế bèn cho sứ giả đến nghinh đón Ngài tới Kiến Khang (tức Nam Kinh). Ngài vừa đến kinh sư, Tống Văn Ðế lập tức bảo các danh tăng đương thời như Huệ Quán, Huệ Nghiêm, v.v... tới lui vấn đáp, cùng truyền đạt lời vấn an của ông ta. Thấy tinh thần thanh thoát của Ngài, Huệ Quán và Huệ Nghiêm đều chân thành kính ngưỡng mà giao tiếp học hỏi. Ðến kinh sư, Ngài trú tại chùa Ðề Hoàn, rồi bắt tay ngay vào việc hoằng dương Phật pháp, khiến Tống Văn Ðế lại càng khâm phục. Ðương thời, lãnh tụ văn học là Nhan Duyên Chi, một danh sĩ tài ba, cũng tự thân đến lễ bái Ngài. Tin này vừa lan truyền, thì các danh sĩ ở kinh sư đồng tới tham bái Ngài tấp nập. Ðại tướng quân ở Bành Thành là Vương Lưu Nghĩa Khang, và thừa tướng Nam Tiếu Vương Lưu Nghĩa Tuyên đồng tôn Ngài làm bậc thầy. Chẳng bao lâu, tăng chúng thỉnh cầu Ngài phiên dịch kinh điển. Vì vậy, Ngài vân tập các danh tăng nghĩa học dịch kinh Tạp A Hàm tại chùa Ðề Hoàn, và kinh Pháp Cổ tại chùa Ðông An, cùng kinh Thắng Man Lăng Già tại quận Ðan Dương. Ngài vân tập hơn bảy trăm người phụ trợ trong công tác phiên dịch. Bảo Vân chuyên dịch; Huệ Quán chấp bút. Văn nghĩa kinh dịch đều thâm sâu nhưng rất lưu loát, hiển rõ tông chỉ.

Khi Nam Tiếu Vương Lưu Nghĩa Tuyên thuyên chuyển sang trấn nhậm tại Kinh Châu, ông thỉnh mời Ngài đi theo. Ðến nơi, ông hộ trợ Ngài trong việc xây cất tăng phòng, đắp tô tượng Phật, v.v... tại Tân Tự. Nơi đó, Ngài dịch kinh Vô Ưu Vương, kinh Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả, kinh Vô Lượng Thọ, kinh Nê Hoàn, Uông Ác Ma, Tương Tích Giải Thoát, Ba La Mật Liễu Nghĩa, Hiện Tại Phật Danh, Ðệ Nhất Nghĩa Ngũ Tướng Lược, Bát Kiết Tường, v.v...Tổng cộng, Ngài dịch hơn một trăm quyển kinh.

Lúc hóa độ chúng dân, Ngài thường nhờ đệ tử là Pháp Dũng phiên dịch. Nam Tiếu Vương lại muốn thỉnh Ngài giảng kinh Pháp Hoa. Song, Ngài tự nghĩ tiếng Tàu chưa thành thục, khiến hổ thẹn vô ngần, nên ngày đêm lễ bái sám hối, cầu Bồ Tát Quán Âm gia hộ. Ðêm nọ, Ngài mơ thấy một vị mặc y phục trắng, lưng đeo kiếm, tay cầm một cái đầu người. Người đó đến trước mặt Ngài hỏi:

- Sao Thầy lại quá ưu sầu?

Trong mộng, Ngài bèn thuật lại việc được thỉnh giảng kinh mà chưa thông thạo tiếng Tàu. Người đó bảo:

- Chẳng có gì phải ưu sầu!

Nói xong, người đó bèn rút gươm ra, chặt đứt đầu của Ngài, rồi thay cái đầu đang cầm trong tay vào cổ. Cái đầu mới bèn tự nhiên chuyển động như thường, rồi hỏi:

- Có đau không?

Ngài đáp:

- Không đau!

Chốc lát sau, Ngài bừng tỉnh dậy, tâm vui mừng vô ngần. Ngày thứ hai, Ngài có thể thông thạo tiếng Tàu, nên thể theo lời thỉnh cầu khi trước của ông Nam Tiếu Vương Lưu mà đăng đàn giảng kinh Pháp Hoa.

Cuối niên hiệu Nguyên Gia, Nam Tiếu Vương Lưu thường thấy những điềm mộng quái dị, nên đến hỏi han. Ngài bảo:

- Kinh sư chắc sẽ có họa loạn phát sanh.

Chưa đầy một năm, quả nhiên thái tử Lưu Thiệu phản loạn, giết Tống Văn Ðế. Tống Hiếu Ðế (457-464) lên ngôi. Lúc ấy, biết Nam Tiếu Vương Lưu có âm mưu phản loạn, nên dung mạo của Ngài rất lo lắng ưu sầu. Song, Ngài không tìm được cơ hội để cản trở ông ta. Thấy bộ mặt ưu sầu của Ngài khác thường, ông ta bèn đến hỏi nguyên nhân. Ngài trịnh trọng ân cần khuyên nhủ, nhưng Nam Tiếu Vương Lưu vẫn không bỏ mưu đồ phản loạn. Cuối cùng, biết không còn cách nào để cản trở Nam Tiếu Vương Lưu, Ngài rơi lệ, bảo:

- Nếu Ngài không hồi tâm chuyển ý, thì tôi sẽ không ở lại nơi đây nữa.

Nói xong, Ngài định rời nơi đó. Song, thấy có mặt của ngài Cầu Na Bạt Ðà La thì việc xuất binh mới danh chánh ngôn thuận, nên Nam Tiếu Vương Lưu bức bách Ngài phải theo quân binh mà phản loạn. Sau này, tại núi Lương Sơn, quân của Nam Tiếu Vương Lưu bị đại bại, và thuyền của Ngài cũng bị cháy rụi. Bấy giờ, thuyền ở giữa dòng sông, rất cách xa bờ, nên Ngài tưởng chắc là khó thoát khỏi đại kiếp. Ngài chỉ một lòng nhất tâm xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Âm, và cầm một cây trúc, nhảy xuống dòng sông, rồi trôi theo dòng nước. Bấy giờ, Ngài chợt xoay lại, thấy một đứa bé đang kéo mình vào bờ. Ngài bảo:

- Ngươi chỉ là một đứa bé, sao giúp Ta vượt sông được!

Nói vừa dứt lời thì thấy thân mình đã đến bờ sông, Ngài bèn cởi áo choàng tặng cho đứa bé đó, để đền ơn cứu mạng. Song, xoay qua lại bốn bên, Ngài chẳng thấy ai cả, nên biết rằng mình được thần linh cứu mạng.

Sau trận chiến tại núi Lương Sơn, Tống Hiếu Ðế ra lịnh cho Vương Huyền Mô (đại tướng giết được Nam Tiếu Vương Lưu tại núi Lương Sơn) rằng nếu bắt được Ma Ha Diễn, thì phải dâng chiếu báo tin, rồi giải về kinh đô lập tức. Tìm bắt được Ngài, Vương Huyền Mô bèn y theo lịnh mà giải về kinh sư. Vừa vào triều, Tống Hiếu Ðế liền đến vấn an, ân cần hỏi han, biểu lộ tâm tình ngưỡng mộ, bảo:

- Trẫm ngưỡng mộ đã lâu, nay mới được tương kiến.

Ngài nói:

- Thân tôi bị nạn binh đao. Ðáng lẽ đã bị phanh thây nát tủy, mà Ðiện Hạ lại không hiềm nghi, lại còn ân cần tiếp đón. Thật là ân tái tạo.

- Vậy thì ai là tham mưu phản loạn?

- Người xuất gia vốn không thể tham dự vào những cuộc binh biến, nên tôi không biết những người đồng mưu phản loạn. Song, tôi và Trương Suơng, Tống Linh Tú, v.v... đều bị ép bức tham gia phản loạn. Thật không ngờ do túc duyên chủ định, nên mới gặp nạn này.

- Chớ có lo sợ. Trẫm không bắt tội Ngài đâu.

Hôm đó, Tống Hiếu Ðế sai người đưa Ngài trú ở tại hậu đường, rồi cung cấp y phục thức ăn, cùng người ngựa hầu hạ.

Sau khi quân của Nam Tiếu Vương Lưu bị đại bại, quân của Tống Hiếu Ðế tìm được một lá thơ của Ngài gởi đến Nam Tiếu Vương Lưu khi trước. Mở ra xem, Tống Hiếu Ðế chẳng thấy có lời nào dính dấp với việc quân binh, nên lại càng tin tưởng Ngài. Sau này, trong lúc đàm luận, Tống Hiếu Ðế hỏi đùa:

- Ngài có nhớ đến Nam Tiếu Vương Lưu chăng?

Ngài đáp:

- Tôi thọ sự cúng dường của ông ta trong mười năm, sao lại quên được ân đức đó? Xin Ðiện Hạ cho phép tôi được dâng hương cầu siêu độ cho ông ta trong ba năm.

Nghe lời này, Tống Hiếu Ðế bèn ưng thuận.

Chùa Trung Hưng vừa được xây xong, Tống Hiếu Ðế bèn cho vời Ngài sang nơi đó cư trú.

Lần nọ, Tống Hiếu Ðế mở một buổi yến tiệc, và thỉnh Ngài đến. Bấy giờ, trong buổi tiệc, các vương công, đại thần đều hội tụ đầy đủ. Lúc ấy, Ngài chưa kịp cạo tóc, nên vẫn còn tóc trắng y nhiên mà đến. Tống Hiếu Ðế ngước nhìn xa xa rồi xoay lại bảo quan thượng thơ Tạ Trang:

- Vị Ma Ha Diễn này thật là thông minh tài trí. Song, việc già chết của Ngài không xa. Trẫm sẽ thử thách. Nhất định Ngài sẽ biết ý Trẫm.

Ngài vừa bước lên các bậc thang của cung điện thì Tống Hiếu Ðế bèn bước ra nghinh đón, bảo:

- Ngài Ma Ha Diễn không cô phụ phí sức từ xa đến, nhưng còn một việc chưa làm xong.

Ngài nói:

- Tôi từ xa đến kinh đô của đất Tàu đã gần ba mươi năm. Thiên Tử đối đãi với tôi thật rất ân cần thâm hậu. Tôi thật xấu hổ không đáng để thọ ân trọng. Hiện nay tôi đã bảy mươi tuổi, lại có bịnh tật. Bây giờ chỉ còn có cái chết, chính là việc chưa làm xong!

Thấy Ngài biện tài vô ngại, Tống Hiếu Ðế lại thêm khâm phục, và ra lịnh cho Ngài ngồi kế ông ta. Quần thần trong cung đều ghé mắt trông nhìn.

Chùa Tây Khởi ở lầu Phụng Hoàng tại Mạt Lăng, vào mỗi giữa đêm, cánh cửa chùa thường phát ra âm thanh, mà không có thấy hình bóng người nào. Vài tăng sĩ cũng thường bị giựt mình thức dậy, khiến tâm thần của chúng tăng bất an, nên đến cầu Ngài. Ngài bèn dâng hương khấn nguyện:

- Túc duyên của quý vị vốn ở nơi đây. Hôm nay chúng tôi xây cất chùa tại nơi này, cũng thường thay mặt quý vị mà hành đạo lễ bái. Quý vị nếu muốn trụ nơi đây, thì phải trở thành thiện thần hộ pháp. Nếu không trụ được ở đây, thì xin hãy mau đi nơi khác.

Tối hôm đó đạo tục hơn mười người đồng mộng thấy quỷ thần đều bay mất lên trời. Từ đó, chúng tăng không còn bị quỷ thần quấy nhiễu nữa.

Niên hiệu Ðại Minh thứ sáu (462), khắp nơi đều bị nạn hạn hán. Tuy trải qua vài tháng mà cầu không được một giọt mưa nào. Tống Hiếu Ðế bèn thỉnh Ngài cầu mưa, và ra lịnh rằng nếu cầu không được mưa thì đừng gặp mặt ông ta. Ngài bảo:

- Nương tựa Phật pháp, lại nhờ oai thần của Ðiện Hạ, thì nhất định trời sẽ tuôn nước cam lồ. Nếu không thành công, thì tôi cũng không còn mặt mũi nào để gặp Ðiện Hạ!

Ngài bèn đến Ðiếu Ðài ở Bắc Hồ, chẳng màng ăn uống, dâng hương cầu mưa, âm thầm tụng kinh, đọc thần chú không ngừng. Sáng ngày thứ hai, vào giờ thân, từ phía tây bắc, quả nhiên có mây hội tụ, rồi trong khoảnh khắc gió thổi đến, khiến mưa đổ ào ạt. Hôm sau, các công khanh đại quan đều đến chúc mừng. Tống Hiếu Ðế cũng triệu Ngài vào cung tưởng thưởng không ngừng.

Từ nhỏ đến cuối đời Ngài đều trường chay. Tay thường cầm theo bình hương. Mỗi lần dùng trai xong, bèn lấy thức ăn dư thừa phân phát cho chim chóc. Chim chóc cũng thường đậu trên tay của Ngài, không có chút gì là sợ hãi.

Vào tháng giêng năm 468, cảm thấy thân thể bất an, nên Ngài bèn cáo từ Tống Minh Ðế và chư đại quan công khanh. Ngày lâm chung, Ngài đứng ngắm nhìn thánh tượng thiên hoa. Gần đến giờ ngọ thì thị tịch, thọ bảy mươi lăm tuổi. Tống Minh Ðế đau lòng vô ngần, nên phúng điếu thâm hậu. Các đại quan công khanh cũng buồn thương ai điếu.

29. Ngài Tăng Già Bạt Ma (Sanghavarman).

Tăng Già Bạt Ma, dịch là Chúng Khải. Ngài vốn là người nước Thiên Trúc, xuất gia từ thuở nhỏ, anh tuấn có giới đức, hiểu rõ ba tạng kinh luật luận, lại tinh thông luận Tạp Tâm.

Ðời Tống, niên hiệu Nguyên Gia thứ hai mươi (443), Ngài tự vượt các bãi sa mạc mà đến Kiến Nghiệp. Tánh khí nghiêm túc, ngôn hạnh đều y theo giới luật, khiến đạo tục đồng tôn kính mà xưng gọi là 'Tam Tạng Pháp Sư'. Lúc đầu, Ngài trú tại chùa Bình Lăng. Nghe danh đạo hạnh tinh thuần của Ngài, Huệ Quán bèn cung thỉnh về chùa Ðạo Tràng, và tôn sùng cúng dường để biểu thị sự kính trọng giới đức.

Ngày đêm, Ngài hành đạo đọc tụng kinh điển không mệt mỏi. Tăng chúng hội tụ dưới tòa, và lưu bố chánh giáo khắp nơi. Ðầu tiên, Ngài thuyết giới phẩm cho ni chúng chùa Ảnh Phước như ni sư Huệ Quả, v.v... để học thọ giới cụ túc. Bấy giờ chưa đủ hai chúng tỳ kheo và tỳ kheo ny, nhờ Ngài truyền giới pháp mà mới được đầy đủ. Các ni chúng từ nước Sư Tử đến kinh đô nhà Tống mà cầu giới pháp nơi Ngài. Ðại chúng đồng tôn Ngài làm bậc thầy Tam Tạng. Huệ Nghĩa ở chùa Kỳ Hoàn đến Kinh Ấp, cùng Ngài tranh luận. Ngài dùng tông giáo mà hiển bày chứng minh lý pháp. Trở về, Huệ Nghĩa mới bội phục đức hạnh của Ngài, bèn sai đệ tử Huệ Cơ đem lễ vật đến cúng dường.

Tăng ni theo Ngài tu học có hàng trăm người. Tống Bành Thành, Vương Nghĩa Khang sùng kính giới đức của Ngài nên thường thiết lễ trai tăng cúng dường. Bốn chúng đều đổ dồn về Kinh Ấp.

Ngài thông giải diệu kinh Tạp Tâm, đọc tụng thông suốt. Ba tạng kinh điển tuy đã được dịch rất nhiều mà phần nhiều chưa nhuận sắc hiệu đính lại. Thế nên, tháng chín năm đó, tại chùa Trường Thiên, Huệ Quán triệu tập các học giả, đồng đến cung thỉnh ngài Tăng Già Bạt Ma dịch kinh Tạp Tâm. Bảo Vân chuyển ngữ. Quán Tự ghi chép. Kiểm thảo, tra cứu chu toàn, rồi được hoàn tất. Kế đến, Ngài dịch quyển Ma Ðắc Lặc Già Phân Biệt Nghiệp Báo, Lược Khuyến Chư Vương Yếu Kệ, và Thỉnh Thánh Tăng Tục văn, v.v...

Chí nguyện giáo hóa của Ngài không nhất định ở một phương. Dịch kinh, truyền pháp xong, Ngài từ biệt trở về bổn quốc. Ðại chúng đều cố nài thỉnh Ngài lưu lại, nhưng vẫn không được. Niên hiệu Nguyên Gia thứ mười chín (442), Ngài theo thương thuyền trở về Tây Vực. Không ai biết Ngài nhập tịch tại nơi nào.

 

trang 4

Thần Tăng Thiên Trúc

1234

 

30. Ngài Ðàm Ma Mật Ða (Pháp Tú).

Ngài Ðàm Ma Mật Ða (Dharmamitra) vốn là người nước Kế Tân. Lúc bảy tuổi thần minh trong sáng, thân hình đoan chánh. Mỗi lần thấy chư tăng hành pháp sự đều tự nhiên vui mừng vô hạn. Cha mẹ tuy rất thương mến, nhưng cảm thấy con mình thật lạ lùng, nên cho phép xuất gia. Ðương thời, tại nước Kế Tân có rất nhiều vị thánh giả đạt đạo. Do đó, Ngài tham phương tầm cầu minh sư, quán thông hết tất cả kinh điển, và đặc biệt thâm nhập vào pháp thiền, tức bước vào cửa thiền nơi chốn cực vi áo diệu.

Tánh tình trầm ngâm, thâm thúy mà có huệ giải thâm sâu. Nghi dung đoan chánh. Lúc sanh ra, hai đôi mi liền với nhau. Vì vậy thời nhơn xưng gọi Ngài là Liên Mi Thiền Sư. Ngài thích đi du lịch chư phương vì có chí nguyện hoằng dương chánh giáo. Ngài đi chu du các nước rồi đến nước Quy Từ. Trước ngày đó, quốc vương nước Quy Từ mơ thấy thần nhân bảo:

- Ngày mai sẽ có một vị đại phước đức vào nước. Ðại Vương nên cúng dường hậu đãi vị này.

Hôm sau, quốc vương ban lịnh cho quan đồn trú ở biên ải rằng nếu gặp dị nhân thì phải tức tốc bẩm tấu về triều ngay. Quả nhiên, hôm đó ngài Ðàm Ma Mật Ða đến, nên quốc vương ra tận biên thùy mà tiếp đón, cung nghinh về hoàng cung. Kế đến, quốc vương y theo Ngài mà thọ giới, và tận tâm tứ sự cúng dường. Tuy an cư, nhưng Ngài không màng lợi dưỡng. Trú nơi đó ít lâu sau, Ngài định đi sang các nước khác. Thần nhân lại báo mộng cho quốc vương, bảo:

- Vị phước đức sắp bỏ Ðại Vương rồi!

Tỉnh dậy, quốc vương kinh hoàng, buồn thương, rồi cùng quần thần cố nài thỉnh Ngài lưu lại, nhưng không được. Kế đến, Ngài vượt lưu sa (những bãi sa mạc), tới Ðôn Hoàng, rồi kiến lập tịnh xá nơi vùng đất hoang vu, trồng cây, khai khẩn vườn tược cả trăm mẫu, xây phòng xá thật rất trang nghiêm. Thứ đến, Ngài tới Lương Châu. Nơi công phủ cũ, Ngài xây thiền đường, cùng thu nhận đồ chúng theo học thiền pháp. Học chúng tu thiền lũ lượt kéo đến.

Niên hiệu Nguyên Gia nguyên niên (424), Ngài thường muốn đến Giang Tả để truyền pháp. Từ Lương Châu, Ngài đến đất Thục, rồi ngừng tại Kinh Châu, cất thiền đường tại chùa Trường Sa. Nơi đó, do lòng khẩn thành thỉnh cầu của Ngài, qua vài ngày thì được xá lợi, tỏa ánh sáng chiếu đầy cả am thất, khiến môn đồ đạo tục đều phát tâm dõng mãnh tu hành. Sau này, Ngài lại theo thuyền đến kinh sư. Mới đầu, Ngài trú tại chùa Trung Hưng, rồi sau này sang chùa Kỳ Hoàn. Ðạo phong của Ngài lan rộng khắp vùng lân cận, rồi truyền vào kinh đô, khiến ai ai cũng đều sùng kính. Từ hoàng thái hậu, đến thái tử, công chúa, đều đua nhau đến thỉnh cầu giới pháp, và tứ sự cúng dường nơi Ngài. Do lời thỉnh cầu, tại chùa Kỳ Hoàn, Ngài dịch thiền kinh và thiền pháp yếu Phổ Hiền Quán, Hư Không Tạng Quán, v.v... Ngài thường dùng thiền đạo mà giáo hóa. Ðạo tục ngàn dặm đường, đổ xô về thọ giáo thiền. Người người đều xưng gọi Ngài là 'Ðại Thiền Sư'.

Thái thú Bình Xuơng Mãnh Nghị ở Hội Kê, thâm tín Tam Bảo, xem Phật sự là nhiệm vụ của mình. Nhờ nếm được mùi vị thiền định, nên tâm càng thêm cung kính, nhớ ân trọng của Ngài. Lần nọ, Ngài cùng ông Mãng Nghị đi du hóa đến Ngân Huyện ở Triết Giang, rồi kiến lập chùa tháp. Tại vùng đó, dân chúng có phong tục là tin bùa chú đồng cốt. Ngài đến đó giáo hóa, khiến họ sửa đổi tín ngưỡng, quy y Tam Bảo.

Từ đông sang tây, người người đều kính phục, và thường đến dưới tòa Ngài mà quy chánh. Sau này, Ngài trở về kinh đô, trú tại chùa Ðịnh Lâm ở núi Chung Sơn.

Tánh tình của Ngài điềm đạm, trầm tĩnh, thích cảnh non nước. Vì vậy, Ngài chọn nơi vùng đất cao, trên núi Chung Sơn mà kiến lập chùa Kiến Thượng. Sĩ thứ nghe tin Ngài xây chùa, bèn cúng dường tịnh thí. Sau khi điện đường phòng thiền được xây cất xong, tăng chúng từ ngàn muôn dặm hội tụ về để tu thiền định, tụng đọc kinh điển, khiến gia phong của Ngài càng thêm vang xa. Ðệ tử nhập thất của Ngài là Ðạt Thiền Sư, cũng hoằng hóa gia phong của Ngài, khiến thanh âm vang khắp nơi.

Xưa kia, trên đường đi từ nước Kế Tân đến nước Quy Từ, Ngài được thần vương Ca Tỳ La (Capila) hộ vệ. Khi đến nước Quy Từ, thần vương hiện nguyên hình ngay tại giữa đường để cáo từ trở về, thưa:

- Thần lực của Ngài biến thông tự tại ở mọi nơi, nên không cần phải có con đi theo về phương nam.

Nói xong thần vương biến mất. Do đó, khi lập xong ngôi chùa trên núi Chung Sơn, Ngài bèn họa lại tượng của thần vương Ca Tỳ La, treo ở trên vách tường. Tượng này hiển hiện rất nhiều điềm linh dị. Những ai chí thành cầu phước đều được như sở nguyện.

Vào mồng sáu tháng bảy, niên hiệu Nguyên Gia thứ mười chín (442), ngài Ðàm Ma Mật Ða nhập tịch, thọ tám mươi bảy tuổi. Chư tăng kẻ tục, bốn chúng đệ tử đều thương tiếc. Phần mộ của Ngài được xây trước chùa Tống Hi trên núi Chung Sơn. Ngài dịch kinh Quán Âm Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh (1 quyển), kinh Hư Không Tạng Quán (1 quyển), Thiền Bí Yếu (3 quyển), Ngũ Môn Thiền Kinh Yếu Dụng Pháp (1 quyển), kinh Chuyển Nữ Thân (1 quyển), kinh Chư Pháp Dũng Vương (1 quyển), kinh Hư Không Tạng Bồ Tát Thần Chú (1 quyển), kinh Tượng Dịch (1 quyển).

31. Ngài Phật Ðà La (Buddhajiva, dịch là Giác Thọ).

Ngài là người nước Kế Tân. Lúc nhỏ đã từng thọ nghiệp nơi thuyết Di Sa Tắc Bộ Tăng, tinh chuyên luật phẩm, thâm đạt yếu chỉ thiền pháp. Năm 423, Ngài đến Dương Châu. Xưa kia, ngài Pháp Hiển đã từng thỉnh bộ luật Di Sa Tắc bằng tiếng Phạn tại nước Sư Tử. Chưa dịch xong, thì ngài Pháp Hiển đã thị tịch. Tại Kinh Ấp, chư tăng nghe Ngài tinh chuyên về bộ luật này nên cầu thỉnh phiên dịch. Vào tháng mười một năm đó tại chùa Long Quang, Ngài dịch ra thành ba mươi bốn quyển, gọi là Ngũ Phần Luật, đến tháng tư năm kế thành hoàn tất.

32. Ngài Phù Ðà Bạt Ma (Buddhavarman, dịch là Giác Khải).

Ngài là người ở Tây Vực, thông suốt tam tạng kinh điển, tinh chuyên và thường tụng đọc luận Tỳ Bà Sa, lấy đó là chỗ tâm yếu. Năm 437, Ngài đến Tây Lương. Xưa kia, Ðạo Thái đi qua Tây Vức, thỉnh được quyển Tỳ Sa, lại nghe Ngài tinh thông bộ luận này, nên cung thỉnh phiên dịch. Trong một năm, Ngài dịch quyển luận này ra thành một trăm quyển. Hiện nay chỉ còn tồn tại tám mươi quyển.

33. Ngài Cương Lương Da Xá (Kalayasas).

Cương Lương Da Xá, dịch là Thời Xưng. Ngài vốn là người nước Tây Vực. Tánh tình cang cường chất trực. Ngài thường đọc tụng A Tỳ Ðàm, tinh tường luật tạng, thông suốt kinh điển. Tuy thấu suốt ba tạng kinh điển, mà Ngài thường chuyên về pháp thiền. Mỗi lần nhập thiền, Ngài ngồi suốt cả tuần mà vẫn chưa đứng dậy. Ngài thường dùng chánh thọ tam muội để đi giáo hóa dân chúng ở các nước lân cận.

Ðầu niên hiệu Nguyên Gia (424), Ngài vượt bao sa mạc núi non đến Kinh Ấp (Kiến Khang, hay Nam Kinh). Tống Văn Ðế nghe tin rất mực vui mừng. Ðầu tiên, Ngài dừng lại tại tịnh xá Ðạo Lâm ở núi Chung Sơn. Sa môn Bảo Chí hết lòng tín phụng tôn sùng pháp thiền của Ngài. Do chư sa môn khẩn thỉnh, Ngài dịch kinh Dược Vương, Dược Thượng Quán và kinh Vô Lượng Thọ Quán. Hai bộ kinh này xiển dương bí quyết dẹp trừ phiền não để đạt đến cõi Tịnh Ðộ. Ðương thời vừa dịch ra thì được lưu truyền khắp nước Tống. Thừa tướng Bình Xương Mãnh Nghị nghe tiếng của Ngài, nên rất khâm phục và thường gởi lễ vật đến cúng dường. Thái Thú Nghị Xuất ở Hội Kê thỉnh cầu xuống núi mà Ngài không đi. Sau này, Ngài sang Giang Lăng. Niên hiệu Nguyên Gia thứ mười chín (442), Ngài đi về hướng tây đến đất Thục. Nơi nơi đều hoằng tuyên pháp thiền. Sau này, ngài Cương Lương Na Xá thị tịch tại Giang Lăng, thọ sáu mươi tuổi.

Ðương thời, có hai vị sa môn người Thiên Trúc là Tăng Già Ðạt Ða và Tăng Già Ða La, cũng thâm nhập pháp thiền, và sang đất Tống hoằng hóa. Ngày nọ, ngồi thiền đến giờ ngọ, thì ngài Tăng Già Ðạt Ða bèn xả thiền để dùng cơm trưa, chợt có một đàn chim mang trái cây đến để trước mặt. Ngài Tăng Già Ðạt Ða tự suy nghĩ:

- Xưa kia, khỉ vượn dâng cúng mật ong, đức Phật vẫn thọ nhận mà dùng. Hôm nay, đàn chim mang trái cây đến cúng dường, sao Ta lại không thọ nhận!

Suy nghĩ xong, bèn thọ lấy trái cây mà ăn. Niên hiệu Nguyên Gia thứ mười chín (442), thọ lời thỉnh cầu của Vương Khang ở Lâm Tuyền, ngài Tăng Già Ðạt Ða qua Giang Lăng kết hạ an cư. Cuối cùng, ngài Tăng Già Ðạt Ða thị tịch tại Kiến Nghiệp.

 

34. Ngài Tăng Già Ða La (Chúng Tế).

Cuối đời Tống Cảnh Bình, Ngài đến kinh sư (Kiến Nghiệp), thường đi khất thực trong nhân gian, và vào rừng núi tọa thiền, cách xa thế tục. Niên hiệu Nguyên Gia thứ mười một (434), ngài Tăng Già Ða La đến Chung Trác an cư, rồi chặt cỏ gai mà xây tịnh xá, tức là tịnh xá Tống Hi.

Vào đời Bắc Ngụy, niên hiệu Thái Bình Chân Quân thứ bảy (446), Thái Võ Ðế ra lịnh hủy phá Phật giáo. Vào tháng ba, niên hiệu Thừa Bình (452), Thái Võ Ðế mất, Văn Thành Ðế lên ngôi, hạ lịnh phục hưng Phật giáo. Ðệ nhị Sa Môn Thống (chức tăng quan) là Ðàm Dực, lãnh trọng trách phục hưng giáo lý Phật đà, nên cùng với sa môn người Thiên Trúc là Thường Na Nhã Xá, v.v... phiên dịch ra mười bốn quyển kinh. Ðàm Dực cũng cùng sa môn người Thiên Trúc là Kiết Ca Dạ dịch Phó Pháp Tạng Truyện, kinh Tịnh Ðộ, kinh Tịnh Ðộ Tam Muội, kinh Xưng Dương Chư Phật Công Ðức, kinh Ðại Phương Quảng Bồ Tát Thập Ðịa.

35. Ngài Mạn Ðà La Tiên (Mandra, dịch là Hoằng Nhược).

Mạn Ðà La Tiên người Phù Nam, mang rất nhiều kinh điển bằng chữ Phạn sang Trung Thổ. Theo sắc lịnh của triều đình, Mạn Ðà La Tiên cùng với sa môn Tăng Già Bà La dịch kinh Bảo Vân, kinh Pháp Giới Thể Tánh Vô Phân Biệt, kinh Văn Thù Sư Lợi Bát Nhã.

36. Ngài Tu Bồ Ðề (Subhuti, dịch là Thiện Kiết).

Ngài vốn là người nước Phù Nam, đã từng dịch kinh Ðại Thừa Ðại Bảo Tích.

 

37. Ngài Tăng Già Bà La (Sanghabhadra).

Ngài Tăng Già Bà La (dịch là Tăng Khải) vốn là người Phù Nam, xuất sanh vào năm 460, thông minh đảnh ngộ từ thuở nhỏ, sớm đã thân cận học Phật pháp, xuất gia từ lúc còn trẻ, chú trọng nơi luận A Tỳ Ðàm, thanh danh đã vang khắp vùng Nam Hải. Thọ giới cụ túc xong, y theo giới luật mà tu tập tròn vẹn. Ngài có ý chí đi khắp nơi để hoằng dương chánh pháp. Nghe nước Tề tôn sùng Phật pháp, nên Ngài đáp thuyền đến kinh đô Kiến Khang, trụ tại chùa Chánh Quán, làm đệ tử của sa môn Cầu Na Bạt Ðà (người Thiên Trúc). Sau này theo ngài Cầu Na Bạt Ðà nghiên cứu tinh tường kinh Phuơng Ðẳng. Chưa đọc xong hết mà đã tinh thông yếu chỉ. Ngài lại thông thạo rất nhiều ngôn ngữ. Sau khi nhà Tề bị diệt vong, Ngài đoạn hết tất cả thế duyên, ẩn tu trong rừng núi, để dưỡng đạo nghiệp.

Niên hiệu Thiên Giám thứ năm (506), được sắc lịnh của Lương Võ Ðế, tại năm nơi như Chiêm Vân Quán, chùa Chánh Quán, trụ quán Phù Nam, vườn Hoa Lâm, cung điện Thọ Quang ở Dương Ðô trong suốt mười bảy năm trường, Ngài chuyên ròng phiên dịch kinh điển, tổng cộng được 11 bộ, và 48 quyển, như kinh Ðại A Dục, luận Giải Thoát Ðạo, v.v... Lúc Ngài mới bắt tay vào công việc phiên dịch tại cung điện Thọ Quang, Lương Võ Ðế đích thân đến pháp tọa mà ghi chép văn dịch, cùng duyệt thảo lại hết văn kinh dịch. Nhà vua lại ra lịnh cho sa môn Bảo Xướng, Huệ SIêu, Tăng Trí, Pháp Vân, v.v... trợ giúp việc phiên dịch, như kiểm thảo lời kinh, khiến kinh văn được lưu loát. Nhà vua thường tiếp lễ Ngài rất thâm hậu. Song, Ngài không tự giữ tài vật riêng tư. Thái úy Lâm Xuyên Vương Hoằng tiếp đãi Ngài rất trọng hậu.

Niên hiệu Phổ Thông thứ năm (524), ngài Tăng Già Bà La nhập tịch tại chùa chánh quán, thọ sáu mươi lăm tuổi.

38. Ngài Nguyệt Bà Thủ Na (Udasunya, dịch là Cao Không).

Ngài vốn là dòng dõi vương gia Ưu Thiền Ni (Vjjayani) ở trung Thiên Trúc. Ngài sang Ðông Ngụy hoằng hóa. Niên hiệu Nguyên Tượng nguyên niên (538), tại dinh phủ quan tư đồ Tôn Thắng, Ngài dịch kinh Tăng Già Trá, do sa môn Tăng Phưởng ghi chép. Sau đời Ðông Ngụy, đến đời Hậu Tề, niên hiệu Thái Thanh thứ tư (550), Ngài qua Kim Lăng ở Giang Nam, dịch bộ kinh Ðại Thừa Ðảnh Vương. Trước kia, phụng mạng Lương Võ Ðế, Ngài đi ra nước ngoài, đến năm 548, gặp được sa môn Cầu Na Bạt Ðà tại nước Vu Ðiền, mà thỉnh được kinh Thắng Vương Bát Nhã bằng tiếng Phạn. Chẳng may, vì loạn Hầu Cảnh, khiến xã hội bất an, nên Ngài không có cách gì để phiên dịch. Ðến niên hiệu Thiên Gia (565) đời Trần, tại chùa Hưng Nghiệp ở Giang Châu, Ngài mới phiên dịch được quyển kinh Thắng Thiên Vương Bát Nhã, và do sa môn Trí Hân ở chùa A Dục Vương (Dương Châu), ghi chép. Ngoài ra, Ngài còn dịch được kinh Ðại Ca Diếp, kinh Tần Bà Bà La Môn Vương Vấn Phật Cúng Dường. Không ai biết Ngài tịch vào năm nào.

39. Ngài Ðàm Ma Lưu Chi (Dharmaruci).

Ðàm Ma Lưu Chi, (dịch là Pháp Hy), vốn là vị tam tạng pháp sư ở nam Thiên Trúc. Lúc đến Lạc Dương, Ngài được Tuyên Võ Ðế (499-515), thỉnh cầu phiên dịch kinh điển. Niên hiệu Cảnh Minh thứ hai (501), tại chùa Bạch Mã, do sa môn Ðạo Bảo ghi chép, ngài Ðàm Ma Lưu Chi dịch kinh Như Lai Nhập Nhất Thiết Phật Cảnh Giới và kinh Như Lai Trang Nghiêm Trí Huệ Quang Minh Nhập Nhất Thiết Chư Phật Cảnh Giới. Vào năm 504 và năm 507, Ngài dịch được kinh Tín Lực Nhập Ấn Pháp Môn, cùng kinh Kim Sắc Vương. Năm 542, tại chùa Dịch Hoa, Ngài dịch kinh Bát Phật. Không biết Ngài nhập tịch vào năm nào.

 

40. Bồ Ðề Lưu Chi (Bodhiruci).

Ngài Bồ Ðề Lưu Chi (dịch là Ðạo Hỷ) vốn là người bắc Thiên Trúc, thông suốt ba tạng kinh điển, diệu nhập tổng trì, có ý chí hoằng pháp. Vào đời Bắc Ngụy, đầu niên hiệu Vĩnh Bình (508), Ngài vượt ngọn Thông Lĩnh, đến Ðông Hạ. Nghe tin này, Tuyên Võ Ðế bèn hạ lịnh nghinh đón Ngài về Vĩnh Ninh Ðại Tự, ân cần tứ sự cúng dường. Ông lại sai bảy trăm vị Phạn tăng hỗ trợ Ngài phiên dịch kinh điển.

Lúc đầu, y theo sắc lịnh, Ngài dịch kinh Thập Ðịa. Tuyên Võ Ðế đích thân ghi chép. Các sa môn như Tăng Biện, v.v... thảo duyệt văn dịch. Phật pháp được hưng thạnh, và các bậc anh tài xuất hiện, từ lúc truyền bá những kinh điển này. Tuyên Võ Ðế lại ra lịnh cho thanh tín sĩ Lý Khuếch soạn viết mục lục các bộ kinh vừa được ngài Bồ Ðề Lưu Chi dịch. Thanh tín sĩ Lý Khuếch vốn đã học thông huyền nghĩa, quán suốt kinh luận. Thanh tín sĩ Lý Khuếch viết rằng tam tạng pháp sư Bồ Ðề Lưu Chi tại Lạc Dương và Nghiệp Ðô, hơn hai mươi năm dịch được ba mươi chín bộ kinh, và một trăm hai mươi bảy quyển như kinh Phật Danh, Lăng Già, Pháp Tập, Thâm Mật, v.v... và luận Thắng Tư Duy, Pháp Hoa, Niết Bàn, v.v... Sa môn Tăng Lãng, Ðạo Trạm, v.v... ghi chép.

Trong quyển 'Nội Ðiển Lục' đời Ðường Trinh Quán, Lý Khuếch viết rằng trong gian phòng của tam tạng pháp sư Bồ Ðề Lưu Chi có cả muôn bộ kinh chữ Phạn, và các quyển kinh được phiên dịch, đầy cả gian phòng. Huệ giải của tam tạng pháp sư Bồ Ðề Lưu Chi tương đồng với sa môn Lặc Na Ma Ðề, và thần ngộ minh mẫn, lại tinh thông chú thuật, mà không ai sánh bằng.

Lần nọ, Ngài định tắm mà nước trong giếng lại khô cạn. Các đệ tử cũng chưa kịp mang nước đến. Ngài bèn lấy một nhánh cây liễu, gia trì vài biến, rồi bỏ vào trong giếng. Lát sau, nước từ dưới đáy giếng vụt phun lên đầy khắp. Chư tăng ở nơi đó, thấy chú thuật thần dị của Ngài như thế, đều kính phục, nên xưng tán là 'Ðại Thánh Nhân'. Ngài liền bảo:

- Chớ vọng khen những lời như thế. Chỉ có phương này là không thường hành, còn ngoại quốc tăng nhân luôn hành pháp thuật này. Sao dám gọi là bậc thánh!

Ngài sợ làm mê hoặc thế nhân nên không truyền pháp chú thuật. Những bộ kinh luận do ngài Bồ Ðề Lưu Chi phiên dịch như sau: Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật (1 quyển), luận kinh Kim Cang Bát Nhã (3 quyển), kinh Nhập Lăng Già (10 quyển), kinh Chúng Mật Giải Thoát (5 quyển), kinh Pháp Tập (8 quyển), kinh Thắng Tư Duy Phạm Thiên Sở Vấn (6 quyển), kinh Ðại Tát Giá Ni Kiền Tử Thọ Ký (10 quyển), kinh Phật Danh (12 quyển), kinh Bất Tăng Bất Diệt (2 quyển), kinh Sai Ma Ba Ðế Thọ Ký (10 quyển), luận kinh Vô Lượng Thọ Ưu Ba Ðề Xá (1 quyển), luận kinh Già Da Ðảnh (2 quyển).

Ngài tịch vào năm 527.

41. Tam tạng pháp sư Lặc Na Ma Ðề (Ratnamati, dịch là Bảo Hỷ).

Ngài là người trung Thiên Trúc, văn chương lý sự đều khiêm thông, học vấn uyên bác, kiến thức rộng sâu, tụng hơn một ức bài kệ (mỗi bài kệ có ba mươi hai chữ), lại thấu suốt và thường hoằng hóa pháp thiền. Ðời Bắc Ngụy, niên hiệu Chánh Thủy thứ nhất (504), ngài Lặc Na Ma Ðề đến Lạc Dương, dịch kinh tại trong cung điện. Lúc đầu, ngài Lặc Na Ma Ðề hỗ trợ ngài Bồ Ðề Lưu Chi phiên dịch. Vì có những điểm bất đồng trong cách phiên dịch, nên sau này tự dịch riêng. Sa môn Tăng Lãng, Giác Ý, v.v... ghi chép. Ngài Lặc Na Ma Ðề dịch những quyển kinh luận như sau: Kinh Tỳ Da Bà Vấn (2 quyển), Long Thọ Bồ Tát Hòa Hương Phương (1 quyển), luận kinh Thập Ðịa (12 quyển), luận kinh Bảo Tích (4 quyển), luận Cứu Cánh Nhất Thừa Bảo Tánh (4 quyển), luận kinh Pháp Hoa (1 quyển).

42. Tam tạng pháp sư Phật Ðà Phiến Ða.

Phật Ðà Phiến Ða (dịch là Giác Ðịnh), người bắc Thiên Trúc; từ năm 525 đến năm 539, tại chùa Bạch Mã ở Lạc Duơng và chùa Kim Hoa ở Nghiệp Ðô, Ngài dịch được mười bộ kinh luận như: Kinh Kim Cang Thượng Vị Ðà La Ni (1 quyển), kinh Như Lai Sư Tử Hống (1 quyển), kinh Chuyển Hữu (1 quyển), kinh Thập Pháp (1 quyển), kinh Ngân Sắc Nữ (1 quyển), kinh Chánh Pháp Cung Kính (1 quyển), kinh Vô Úy Ðức Nữ (1 quyển), kinh Vô Tự Bảo Khiếp (1 quyển), kinh A Nan Ða Mục Khư Ni Ha Ly Ðà La Ny (1 quyển), luận Nhiếp Ðại Thừa (2 quyển).

43. Ngài Cù Ðàm Bát Nhã Lưu Chi.

Cù Ðàm Bát Nhã Lưu Chi (dịch là Trí Hy), người nam Thiên Trúc, xuất thân từ dòng bà la môn, ở thành Ba La Nại (Baranasi), đến Trung Thổ vào niên hiệu Hy Bình (516) đời Bắc Ngụy. Từ niên hiệu Nguyên Tượng nguyên niên (538) đến niên hiệu Hưng Hòa mạt niên (542), tại Ðô Thành, Ngài dịch: Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ (70 quyển), kinh Thánh Thiện Trụ Ý Sở Vấn (3 quyển), kinh Vô Cấu Thế (1 quyển), kinh Vô Cấu Ưu Bà Di (1 quyển), luận Hồi Tranh (1 quyển), luận Nghiệp Thành Tựu (1 quyển), Giải Thoát Giới Bổn (1 quyển).

44. Ngài Chân Ðế (Paramatha).

Ngài Chân Ðế tiếng Phạn gọi là Ba La Mạt Ðà, và biệt danh là Câu La Na Tha (dịch là Thân Y). Ngài xuất sanh tại tây Thiên Trúc, tức nước Ưu Thiền Ni (Ujjaini). Bản tánh thông minh lanh lợi, khí chất phi phàm, thiên phú dị bẩm, tinh thông Phật pháp, hiểu rõ ngoại điển, có đầy đủ năng lực thần dị, là vị danh tăng học giả tài đức kiêm toàn.

Lương Võ Ðế (502-549) sùng kính Tam Bảo, nên Phật giáo tự nhiên được hưng thạnh. Các vương quốc ở vùng Nam Hải cũng đến triều cống rất nhiều. Lúc tiếp kiến với sứ giả nước Phù Nam (Cam Bốt), Lương Võ Ðế yêu cầu nước Phù Nam gởi các vị tam tạng pháp sư, cao tăng danh đúc, các kinh luận đại thừa, v.v..., sang Trung Thổ.

Ngài Chân Ðế từ trung Thiên Trúc, du lịch sang các vương quốc lân cận, và thường tới nước Phù Nam. Nhà Lương cùng nước Phù Nam giao hảo rất thân mật. Thuận lời yêu cầu của Lương Võ Ðế, vua nước Phù Nam ra lịnh cho ngài Chân Ðế mang kinh luận qua Tàu.

Ngài Chân Ðế theo đường biển đến Quảng Châu vào rằm tháng tám năm 546, niên hiệu Ðại Ðồng, rồi tới Kiến Khang vào tháng tám năm 548. Lương Võ Ðế ân cần hậu đãi, thỉnh ngài Chân Ðế vào điện Bảo Vân cúng dường thâm hậu.

Mồng mười tháng tám năm 548, Hầu Cảnh cử binh phản loạn ở Thọ Dương, rồi vượt sông Trường Giang, đem quân bao vây Kiến Khang. Lương Võ Ðế không kháng cự mà chết vì đói. Thành Kiến Khang bị chiến nạn, lửa cháy khắp nơi, dân chúng chết đói la liệt. Vì vậy, ngài Chân Ðế phải rời khỏi nơi đó để đến Phú Xuân. Tại dinh huyện của Lục Nguyên Triết, Ngài bắt đầu phiên dịch kinh điển. Lục Nguyên Triết cũng triệu thỉnh danh tăng Bảo Quỳnh cùng hơn hai mươi người khác hỗ trợ việc phiên dịch. Song, vì thế cuộc biến chuyển, nên dịch chỉ được năm quyển kinh là phải đình chỉ.

Năm 552, ứng theo lời triệu thỉnh của Hầu Cảnh, ngài Chân Ðế trở lại Kiến Khang thọ sự cúng dường. Năm kế, Hầu Cảnh bị giết chết. Tương Ðông Vương lên ngôi, lấy hiệu là Lương Nguyên Ðế. Lúc ấy, ngài Chân Ðế lưu lại chùa Chánh Quán ở Kiến Khang, rồi cùng Nguyên thiền sư và hơn hai mươi người khác đồng dịch kinh Kim Quang Minh. Tháng hai năm 554, ngài Chân Ðế rời Kiến Khang, đến chùa Bảo Ðiền ở Dự Chương. Nơi đây Ngài đã từng tạm trú trên tuyến đường từ Quảng Ðông đến Kiến Khang. Lúc đó, Ngài thường qua lại với tăng nhân là Cảnh Thiều (508-583), vốn là vị giới sư ở vùng Dự Chương. Ngài rất tán thán Cảnh Thiều, một vị tăng tài đức kiêm toàn. Ngài bảo:

- Ta đã từng chu du qua nhiều nước, mà rất ít gặp được những người như Cảnh Thiều.

Tại Dự Chương, Ngài dịch được kinh Tân Kim Quang Minh, Duy Thức Luận, kinh Niết Bàn, v.v...

Năm 554, niên hiệu Thừa Thánh thứ ba, Ngài rời Dự Chương, qua Tân Ngô trú tại chùa Mỹ Nghiệp, rồi đến Thủy Hưng trú tại chùa Kiến Hưng. Sau này, Ngài qua Quảng Ðông, vào Giang Tây, rồi đến trú tại chùa Tịnh Ðộ ở Nam Khang. Ngài liên tục phiêu bạt vân du, trước sau không có một nơi cư trú cố định để chuyên tâm dịch kinh.

Năm 558, niên hiệu Vĩnh Ðịnh thứ hai, Ngài trở lại Dự Chương, trú tại chùa Thê-ẩn. Lúc đó, Ngài đi khắp Lâm Xuyên, vượt qua dãy núi Võ Di, rồi trải qua bao dặm đường dài khổ cực, đến được Tấn An. Tại đó, thấy đường biển thuận lợi, nên Ngài định theo thuyền mà trở về cố quốc. Nơi ấy, Ngài gặp các danh tăng như Trí Văn, Tăng Tông, Pháp Chuẩn, v.v...Trí Văn vốn tinh thông Thập Tụng Luật. Vì lánh nạn vào cuối đời Lương nên đến vùng Mân Nam, rồi được Tăng Tông, Pháp Chuẩn cung thỉnh đăng đàn thuyết pháp. Nơi đó, Trí Văn cũng cảm hóa được rất nhiều người, khiến họ quy y tam Bảo, cúng dường chư tăng, trừ bỏ những thói hư tật xấu như hút thuốc, uống rượu, cờ bạc. Nhờ tín phụng và hiểu rõ Phật Pháp, những ngư dân đốt lưới, bỏ nghề đánh cá, giữ giới không giết hại. Khi gặp được Ngài, Trí Văn cùng theo học Phật pháp.

Hoài bão của ngài Chân Ðế là muốn sang Trung Thổ để hoằng dương chánh pháp, phiên dịch kinh điển. Song, gặp lúc thời cuộc loạn ly, nhân tâm rối loạn, tai nạn liên miên, nên thất chí, theo thuyền trở về Thiên Trúc. Trên đường, ngài ghé qua Quảng Ðông, tới quận Lương An. Thái thú Vương Phương Xa cùng nhân sĩ trong vùng khẩn thỉnh Ngài ở lại. Tuy chấp thuận lời thỉnh cầu của họ mà lưu lại nơi đó, nhưng Ngài không có ý an trú lâu dài. Từ mồng một tháng năm đến ngài hai mươi lăm tháng chín năm 562, Ngài dịch kinh Kim Cang Bát Nhã (10 quyển), và Kim Cang Bát Nhã Sớ, do ngài Thế Thân chú giải.

Cuối cùng, vào tháng chín năm 562, Ngài lên thuyền từ Lương An trở về Thiên Trúc. Trên đường gặp giông tố, nên gió thổi thuyền chạy trở lại Quảng Ðông vào tháng chạp. Thái Thú Âu Dương Nguy bèn cầu thỉnh Ngài trở về lưu trú tại chùa Chế Chỉ, tiếp tục công tác phiên dịch kinh điển. Từ đó, Ngài không còn có ý niệm trở về bổn quốc. Với sự giúp đỡ của đệ tử là Huệ Khải, Ngài phiên dịch kinh Quảng Nghĩa Pháp Môn, Duy Thức Luận. Thái thú Âu Dương Nguy cũng quy y, thọ giới Bồ Tát, làm đệ tử của Ngài.

Trong năm đó, Âu Dương Nguy mất, con là Âu Dương Hột làm thỉnh chủ. Huệ Trí, trụ trì chùa Chế Chỉ, và chinh nam trường sử Viên Kính làm đàn việt. Ngài dịch xong quyển Nhiếp Ðại Thừa Luận. Các vị tăng ở Tấn An theo Ngài tu học khi xưa, lặn lội xuống vùng Lãnh Nam ở Quảng Châu để nghe Ngài giảng giải Phật pháp tân thuyết.

Tháng giêng năm 564, do lời thỉnh cầu của Huệ Khải, Pháp Nhẫn, v.v..., Ngài dịch Phẩm Hoặc trong quyển luận Câu Xá. Chưa dịch xong thì chợt có sự biến, nên Ngài tạm sang quận Nam Hải cư trú. Ðến tháng mười năm đó thì Ngài dịch xong, được hai mươi hai quyển văn luận, một quyển kệ luận, và năm mươi ba quyển nghĩa sớ. Sau này, ứng theo lời cầu thỉnh của quan thứ sử, Ngài vào thành giảng kinh thuyết pháp. Thấy những bản dịch cũ có nhiều chỗ thiếu sót sai lầm, nên Ngài dịch lại quyển luận Câu Xá từ tháng hai năm 565 đến tháng chạp năm 567 thì hoàn tất. Tháng giêng năm kế, Ngài dịch xong quyển Luật Nhị Thập Nhị Minh Liễu Luận.

Suốt đời hoằng pháp lợi sanh, nhưng Ngài lại không có nhân duyên được đạo tràng và chùa chiền tốt để an trú hành pháp, mà lại gặp bao việc không vừa ý, nên có ý định tự vẫn. Ðang giảng luận Câu Xá, nghe được tin này, Huệ Khải bèn trở về chùa ngay lập tức để cản trở. Chư tăng kẻ tục đồng đến an ủi Ngài. Thứ sử Âu Dương Hột cũng phái người đến hầu cận, rồi tự thân tới săn sóc Ngài trong ba ngày liền. Ông an bài cho Ngài tạm an trú tại chùa Vương Viên. Ðệ tử Tăng Tông, Tăng Khải, v.v... định đưa Ngài trở lại Kiến Khang. Song, các học giả ở nơi đó, sợ rằng một khi Ngài trở về thì thanh danh và quyền thế của họ bị lu mờ, nên đồng dâng biểu lên vua Trần Văn Ðế:

- Tại vùng Lãnh Nam, Chân Ðế phiên dịch Duy Thức Vô Trần Thuyết. Vị tăng đó vừa tuyên dương giáo pháp, vừa rong đuổi theo quyền thế chính trị. Ðiều này chẳng những không hợp tình mà còn tương phản với giáo nghĩa của nước ta. Loại người này, xin nhà vua hãy đuổi ra kinh thành để đến những miền xa xăm.

Trần Văn Ðế y nhiên phê chuẩn, nên Ngài không thể trở về kinh thành được. Quyển 'Tân Duy Thức Luận' do Ngài vua phiên dịch xong, cũng không được lưu truyền ra ngoài.

Trước kia, Lương Võ Ðế tôn sùng Ðại Luận, vì chính ông ta học Thành Thật Luận. Trần Văn Ðế không giống như thế. Ông ta thường nỗ lực hoằng truyền kinh Ðại Phẩm Bát Nhã, và tân trọng Tam Luận.

Tuy trải qua hai triều đại Lương và Trần, phong trào tu học tại Kiến Khang vẫn ưa chuộng lý Bát Nhã, Tam Luận.

Pháp Thái, đệ tử của ngài Chân Ðế, giảng Nhiếp Luận Duy Thức, mà chư tăng cùng kẻ tục không thể lãnh hội được. Do đó, mọi người đều lạnh nhạt và không có ai muốn nghiên cứu giáo lý Du Già Duy Thức.

Huệ Khải tại chùa Trí Huệ giảng được chín quyển luận Câu Xá, sớ Nghiệp Phẩm rồi thị tịch. Do đó, ngài Chân Ðế thay thế, tiếp tục giảng thêm ba quyển. Giảng chưa hoàn tất thì Ngài viên tịch vào năm kế, tức ngày mười một tháng giêng năm 568. Ngài lại phó thác cho đệ tử là Trí Hưu và Pháp Hải ở chùa Tam Tạng lãnh thọ. Ngày thứ mười hai, chư đệ tử làm lễ trà tỳ rồi cho xây tháp thờ. Ngày thứ mười ba, Tăng Tống, Pháp Chuẩn, v.v... bàn luận định đến Lô Sơn. Ðệ tử của Ngài là Trí Kiểu viết:" Ngài tam tạng Chân Ðế vừa viên tịch thì các pháp lữ bèn đi tán hết. Tông tự không có người kế thừa."

Ngài Chân Ðế bỏ ra hết tâm huyết chú trọng vào việc dịch quyển Nhiếp Ðại Thừa Luận. Ðương thời các đệ tử như Tăng Tống, Huệ Khải cũng dụng hết công sức để nghiên cứu và hỗ trợ.

Ngày nọ, trời lạnh rét buốt, mà ngài Chân Ðế chỉ mặc y phục đạm bạc, dịch kinh đến suốt đêm, nên sức khỏe yếu kém. Lúc Ngài vừa định ngủ, Huệ Khải bèn nhẹ nhàng lén lấy hậu y đắp lên đôi bàn chân của Ngài để cho ấm, nhưng Ngài lại la rầy trách mắng. Việc này biểu thị cho tinh thần tri túc, chí khí chịu khổ nhọc, chuyên cần hoằng dương chánh pháp của Ngài. Do đó, chư đệ tử ngày càng bội phục kính trọng.

Ngài cũng thường than rằng thời vận của mình không may, khiến nhân duyên hoằng pháp bị nhiều chướng ngại. May mắn là Ngài được chư đệ tử hết lòng tôn sùng, dốc lòng hỗ trợ trong công tác phiên dịch kinh luận, nên được an ủi phần nào. Huệ Khải sợ pháp Du Già Duy Thức tương lai sẽ bị mai một. Ngài chỉ tay về hướng tây bắc, bảo:

- Nơi đó có một đại quốc, chẳng gần chẳng xa. Sau khi Ta mất đi, người ở xứ đó sẽ tuyên dương pháp này, khiến được hưng thịnh.

Lời tiên đoán của ngài Chân Ðế thật không sai. Sau này tại phương bắc có ngài Ðàm Tuyển hoằng dương Nhiếp Ðại Thừa Luận, và dùng pháp này để làm nền tảng cho tông Nhiếp Luận.

Ngài Chân Ðế ở Trung Thổ phiên dịch kinh luận từ năm 546 tới năm 569. Trải qua hai mươi ba năm, ngài Chân Ðế phiên dịch được sáu mươi bốn bộ, và hai trăm bảy mươi tám quyển kinh luận. Công nghiệp của ngài Chân Ðế ảnh hưởng rất lớn đối với Phật giáo sau này.

Những kinh luận do ngài Chân Ðế phiên dịch như sau: Kinh Quang Minh (7 quyển), kinh Di Lặc Hạ Sanh (1 quyển), kinh Nhân Vương Bát Nhã (1 quyển), luận Thập Thất Ðịa (5 quyển), luận Ðại Thừa Khởi Tín (1 quyển), Trung Luận (1 quyển), luận Như Thật (1 quyển), luận Bổn Hữu Kim Vô (1 quyển), luận Tam Thế Phân Biệt (1 quyển), sớ kinh Kim Quang Minh (13 quyển), sớ kinh Nhân Vương Bát Nhã (6 quyển), sớ luận Ðại Thừa Khởi Tín (2 quyển), sớ Trung Luận (2 quyển), Cửu Thức Nghĩa Ký (2 quyển), Chuyển Pháp Luân Nghĩa Ký (1 quyển), kinh Phật A Tỳ Ðàm (9 quyển), kinh Vô Thượng Y (2 quyển), kinh Giải Tiết (1 quyển), kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật (1 quyển), kinh Quảng Nghĩa Pháp Môn (1 quyển), Tăng Xút Ða Luật 1 quyển), Tu Thiền Ðịnh Pháp (1 quyển), luận Câu Xá Thích (21 quyển), Lập Thế A Tỳ Ðàm (10 quyển), luận Nhiếp Ðại Thừa (15 quyển), luận Phật Tánh (4 quyển), luận Tứ Ðế (4 quyển), luận Tăng Già (3 quyển), Nhiếp Ðại Thừa Luận Bổn (3 quyển), luận Ðại Không (3 quyển), luận Trung Biên Phân Biệt (3 quyển), luận Kim Thất Thập (2 quyển), Câu Xá Luận Kệ (1 quyển), luận Kim Cang Bát Nhã (1 quyển), luận Luật Nhị Thập Nhị Minh Liễu (1 quyển), luận kinh Ðại Bát Niết Bàn (1 quyển), luận Di Giáo (1 quyển), luận Tam Vô Tánh (1 quyển), luận Phản Chất (1 quyển), luận Tùy Phụ (1 quyển), luận Cầu Na Ma Ðề Tùy Tuớng (1 quyển), luận Thật Hạnh Vương (1 quyển), luận Thành Tựu Tam Thừa (1 quyển), luận Chánh Luân Ðạo Lý (1 quyển), luận Ý Nghĩa (1 quyển), luận Chấp Bộ Dị (1 quyển), Duy Thức Luận Văn Nghĩa Hợp (1 quyển), Chánh Luân Thích Nghĩa (5 quyển), Phật Tánh Nghĩa (3 quyển), Thiền Ðịnh Nghĩa (1 quyển), sớ luận Câu Xá (16 quyển), sớ Kim Cang Bát Nhã (11 quyển), sớ Thập Bát Bộ Luận (10 quyển), sớ kinh Giải Tiết (4 quyển), sớ kinh Vô Thượng Y (4 quyển), sớ luận Như Thật (3 quyển), sớ luận Tứ Ðế (3 quyển), sớ luận Phá Ngã (1 quyển), sớ Tùy Tướng Luận Trung Thập Lục Ðế (1 quyển), truyện Bà Tẩu Bàn Ðầu (1 quyển), Chúng Kinh Thông Tự (2 quyển), Phiên Ngoại Quốc Ngữ (7 quyển), Nhân Thọ Lục (quyển I) luận Thập Bát Không (1 quyển), luận Tư Trần (1 quyển), luận Giải Quyền (1 quyển), luận Quyết Ðịnh Tạng (2 quyển), luận Hiển Thức (1 quyển), luận Chuyển Thức (1 quyển).

Luận Du Già và Duy Thức học ảnh hưởng rất lớn đối với Phật giáo Trung Quốc, mà vị tam tạng pháp sư có công nhiều nhất trong việc phiên dịch và truyền bá những bộ kinh luận đó là ngài Chân Ðế. Tuy có chí hoằng pháp độ sanh, nhưng cuộc đời của ngài Chân Ðế gặp bao cảnh trái ngang, bi đát: Không được nhiều đại thí chủ hộ trì; không có nơi cư trú nhất định, không có đạo tràng đàng hoàng để phiên dịch, v.v... Song, dẫu gặp bao gian nan chán chường, nhưng chí nguyện hoằng pháp của ngài Chân Ðế vẫn kiên cường. Ngài phiên dịch cùng giảng giải kinh điển cho đến phút chót của cuộc đời. Thật xứng đáng là một bậc vĩ nhân trong lịch sử Phật giáo.

Sau này đến đời Ðường, do ngài Huyền Trang tổng quy mô chủ trì tân dịch về các kinh luận Duy Thức, khiến cho những tác phẩm phiên dịch khi trước của ngài Chân Ðế bị lu mờ mai một. Song, sự nghiệp phiên dịch kinh điển của ngài Chân Ðế mãi mãi được ghi vào lịch sử Phật giáo.

45. Ngài Na Liên Ðề Lê Da Xá (Narendrayasas, dịch là Tôn Xưng).

Ngài là người nước Ô Trường ở bắc Thiên Trúc, tộc tánh đồng với Phật, tức họ Thích Ca, dòng Sát Ðế Lợi. Năm mười bảy tuổi, Ngài phát tâm xuất gia, rồi đi tham tầm minh sư học chánh giáo. Năm hai mươi mốt tuổi thọ giới cụ túc. Nghe các bậc tôn túc thường tán thán các Phật thánh tích như nước này có bình bát của Phật, nước kia có thờ y tăng già lê của Phật, nước nọ có thờ Phật Ðảnh Cốt, v.v..., Ngài bèn phát khởi tâm nguyện sẽ đến những nơi đó để chiêm ngưỡng lễ bái. Lúc vừa thọ giới cụ túc xong, bèn biết rõ luật tạng. Ðủ năm hạ bèn đi du phương các nơi. Tất cả thánh tích như bậc đá trời, thạch đài, long miếu, bảo tháp, v.v... Ngài đều đi đến những nơi đó để đảnh lễ chiêm bái. Khi tới chùa Trúc Viên, Ngài trú nơi đó trong mười năm, hiểu rõ tăng sự.

Tánh tình của Ngài chất trực, đức hạnh sáng ngời. Có một vị tôn đức thường biết được căn cơ của người khác, bảo với Ngài:

- Nếu chuyên tịnh tu thì có thể đắc quả thánh; chỉ e sợ Thầy thích đi du phương thì khó mà thành tựu. Nếu hôm nay không lãnh hội được lời này, thì lúc về già hối hận sẽ không kịp!

Ngài đi khắp nơi: Phía bắc đến núi Tuyết Sơn; phía nam đến nước Sư Tủ để lễ bái Phật thánh tích.

Ðương thời, quốc vương nước Ô Trường dùng lòng nhân từ để đối đãi với chúng dân, lại thâm tín Tam Bảo. Mỗi ngày, vào sáng canh năm quốc vương thức dậy đảnh lễ Tam Bảo, dâng hương hoa thành khẩn cúng dường. Mặt trời lên thì lên cung điện duyệt xem những chuyện triều nội. Ðến giờ thìn (từ bảy giờ sáng đến chín giờ tối), thì quốc vương dùng nước hoa để rửa tượng Phật. Mỗi ngày, trong cung điện thường có hàng trăm tăng chúng thọ trai. Quốc vương cùng phu nhân tự tay dâng thức ăn cúng dường chư tăng. Thọ trai xong, quốc vương tập võ thuật. Ðến lúc hoàng hôn thì tự tay sao chép kinh điển, và cùng chư danh tăng cao đức đàm luận nghĩa lý Phật pháp, rồi kế đến là hội nghị với quần thần nghị luận việc chánh trị. Ðến tối, tự vào chánh điện thờ Phật để đốt đèn, lễ bái, và tụng đọc kinh điển, xong rồi bèn đi nghỉ. Hơn ba mươi năm, quốc vương thường hành như thế.

Tương truyền, ở nước Ô Trường, tại một ngọn núi thuộc dãy Tuyết Sơn, có hai con đường: Một là con đường của người, và hai là con đường của quỷ. Con đường của người của người thì cheo leo hiểm trở, còn con đường của quỷ thì thông suốt dễ đi. Hành khách đến nơi đó, thấy hai con đưòng kia, thường nhầm đi vào con đường của quỷ, nên bị loài quỷ giết hại. Xưa kia, có một thánh vương, làm một tượng đá Tỳ Sa Thiên Vương, có cánh tay chỉ rõ con đường của loài người. Lần nọ ngài Na Liên Ðề Lê Da Xá cùng đồng bạn đi lạc vào con đường của loài quỷ. Vừa biết được đi lầm lạc, nên Ngài bèn tụng thần chú. Những người đồng hành, đều bị quỷ giết hại. Nhờ Ngài tụng thần chú nên được thoát nạn. Do đó, Ngài đi ngược trở ra, nhưng lại gặp bọn cướp. Ngài lại chuyên tâm tụng thần chú, nên được thần linh hộ vệ. Bọn cướp định đến cướp bóc, mà đột nhiên chẳng thấy Ngài ở đâu. Ngài lại đi về hướng đông, qua các nước lân cận. Vì gặp nạn binh đao, đường lộ trở về hướng tây bị cắt đứt, nên Ngài không có cách chi để trở về bổn quốc.

Do đó, cứ tùy theo gió lưu chuyển, Ngài đến biển Nê Hải, rồi đi cả bảy ngàn dặm để vào nam. Nơi đó cũng không an, nên Ngài sang nước Tề, cư trú tại kinh đô vào năm (556). Văn Tuyên Ðế gặp Ngài bèn cung kính lễ bái cúng dường thâm hậu. Bấy giờ, Ngài được bốn mươi tuổi. Vă Tuyên Ðế bèn an trí Ngài trú tại chùa Thiên Bình, thỉnh cầu phiên dịch kinh điển. Nhà vua cũng ra lịnh đem hơn cả ngàn quyển kinh tiếng Phạn tại cung điện, sang chùa Thiên Bình, đặt tại một gian phòng ở phía trên. Nhà vua cũng cho xây thêm một đạo tràng trang nghiêm tráng lệ cho Ngài, để biểu thị lòng tôn kính. Ông lại ra lịnh cho chiêu huyền đại thống sa môn Pháp Thượng, cùng hơn hai mươi người khác hỗ trợ cho Ngài phiên dịch kinh điển. Sau khi Ngài dịch xong hơn năm mươi quyển kinh, Văn Tuyên Ðế bèn cho lưu hành, để truyền bá chánh pháp.

Văn Tuyên Ðế tín phụng Phật pháp rất thù đặc. Mỗi lần cầm kinh tiếng Phạn, Ông thường bảo với quần thần rằng đây là Pháp Bảo vô giá mà Trẫm luôn hằng cung kính.

Mỗi khi xong việc dịch kinh, Ngài thường thi thố thần chú, hỗ trợ cho triều đình, lập nhiều công trạng. Những khi được cúng dường lễ vật, Ngài đều không cất giữ làm của riêng, mà đem cúng lại cho chư tăng cùng người nghèo khổ. Ngài thường khởi từ tâm, hưng phước nghiệp, cứu giúp tế độ những kẻ bị tù tội; nơi chợ búa đào những giếng nước, tự thân múc nước cho người. Tại Cấp Quận ở Tây Sơn, Ngài kiến lập ba ngôi chùa lớn, trang nghiêm. Ngài lại nuôi dưỡng nam nữ bị bịnh phong cùi, và chu cấp cho họ đầy đủ vật dụng. Ngài lại thường đi vào các lữ quán, khuyên người trì sáu ngày chay, cùng phóng sanh. Lần nọ, Ngài bị bịnh cả trăm ngày mà vẫn chưa khỏi. Văn Tuyên Ðế cùng hoàng hậu đích thân đến vấn an. Ngài cố ngồi dậy để đáp lễ, nói:

- Bần Tăng vốn là khách ngoại quốc, đức hạnh chưa vẹn toàn. Nay Thánh Thượng giá lâm đến đây để vấn an, khiến Bần Tăng thật cảm thấy xấu hổ muôn phần.

Lý Kiền Ðức lật đổ nhà Tề, lên ngôi lấy hiệu là Chu Võ Ðế. Ông ta cực lực hủy pháp Phật giáo. Trong đắp ba y ca sa, ngoài mang y thế tục, Ngài lánh nạn khắp đó đây mà không được chút yên ổn. Dân chúng cũng bị điêu linh, đói rách lầm than. Tuy sức lực mệt mỏi mà thần khí vẫn sung túc, và tự đốc thúc tùy duyên cứu tế chúng dân lầm than đói rách, cùng thuyết đạo không ngừng.

Bốn năm sau, nhà Tùy lên ngôi, phục hưng Phật pháp. Ðầu niên hiệu Khai Hoàng (581), nhà vua cho vời các nhà dịch giả để phiên dịch kinh chữ Phạn, hầu mong hoằng dương chánh pháp. Vào tháng bảy năm kế, chư đệ tử thỉnh Ngài vào kinh đô, trú tại chùa Ðại Hưng Thiện. Năm đó, Lý Ðông Thảo triệu tập chư tăng dịch kinh, ra lịnh cho chiêu huyền thống sa môn Ðàm Duyên cùng hơn ba mươi người khác hỗ trợ Ngài phiên dịch kinh. Nhà vua thường đến lễ bái, ân cần vấn an, cùng cúng dường thâm hậu.

Trải qua năm tháng du hành khắp xứ, Ngài vẫn chuyên cần tinh tấn tu đạo, thân thường đắp y Xá Lợi Phất Ðà la Ni. Ðêm nọ, Ngài mơ thấy chính tự thân đã thành Phật. Ngài cũng thường mơ thấy những điềm lành.

Sau này Ngài đến chùa Quảng Tế, làm tăng chủ của chư tăng ngoại quốc, và thường vấn an chư khách tăng, được người người kính trọng thương mến. Ngày nọ, Ngài chợt bảo đệ tử:

- Ta đã già yếu, nên chẳng bao lâu nữa sẽ lìa đời. Hôm nay muốn răn nhắc các ngươi rằng Phật pháp khó gặp, phải nên tinh tấn tu hành học đạo. Thân người khó được, trận trọng chớ để thời giờ trôi qua vô ích.

Nói xong, Ngài bèn thị tịch, vào ngày hai mươi chín tháng hai niên hiệu Khai Hoàng thứ chín (589), thọ tròn một trăm tuổi. Lúc trước, Ngài đã từng bảo:

- Ta sẽ sống đến một trăm tuổi, và đồng với Ðăng Tiên.

Quả nhiên như lời đó, Ngài sống đến một trăm tuổi mới nhập tịch. (Ðăng Tiên là một vị thạc đức. Lý giải của Ngài thâm sâu, người khác thật khó suy lường. Hình tướng diện mạo của Ngài thật khác thường. Trên đỉnh đầu nổi một cục thịt. Tiếng nói vang xa tận mây xanh. Ðôi tai lớn và dài. Cặp mắt chỉ nhìn thẳng hay ngó xuống chứ không liếc ngó đông tây. Oai nghi đức tướng không ai bì kịp).

Ngài Na Liên Ðề Lê Na Xá dịch tổng cộng được 15 bộ và hơn 80 quyển kinh như Bồ Tát Kiến Bảo Nguyệt Tạng Tạng Nhật Tạng, Pháp Thắng Tỳ Ðàm, v.v...

Ngài du hành hơn bốn mươi năm, đến khoảng năm mươi vương quốc, đi hơn một trăm năm mươi ngàn dặm, tới tham phương các vị cao tăng danh đức, cùng bao chùa viện thù thắng. Chư danh tăng nơi thâm sơn cùng cốc, hay tứ hải đều kính phụng Ngài.

46. Ngài Xà Na Quật Ða (Jnanagunta).

Xà Na Quật Ða dịch là Ðức Chí Bắc Hiền Ðậu. Hiền Ðậu do xuất phát từ âm Nhân Ðà La Bà Ðà Na (dịch là Vương Xứ, tức là nơi Thiên Ðế Thích thường bảo hộ).

Ngài vốn là người nước Kiền Ðà La, (dịch là nước Hương Hạnh). Gia thế thường cư trú tại thành Phú Lưu Sa Lưu La (dịch là cung Trượng Phu). Ngài vốn thuộc dòng Sát Ðế Lợi, tục tánh là Kim Bộ, dịch là Hạng (tức như cổ của con chim khổng tước), thuộc dòng quý tộc ở trong nước đó. Người cha tên là Bạt Xà La Bà La (dịch là Kim Cang Kiên). Thuở nhỏ, ông có hoài bão cao xa; lớn lên có đủ khì tiết thanh cao, lập thân làm tể tướng. Ông có năm người con, mà ngài Xà Na Quật Ða là nhỏ nhất.

Lúc nhỏ, ngài Xà Na Quật Ða có đức tánh chơn trực, sớm phát đạo tâm, thích xuống tóc, nguyện đi xuất gia. Song thân biết rõ, nhưng không thuận cho đi xuất gia. Nước đó có một tự viện lớn gọi là Ðại Lâm. Ngài thường đến đó nương tựa, để mong được độ thoát. Sau này, Ngài y chỉ theo sa môn Xà Nhã Na Bạt Ðạt La (dịch là Trí Hiền), thông suốt tam tạng, hiểu rõ luật tạng.

Sau khi xuất gia ngài Xà Na Quật Ða hiếu kính, chuyên tín thành lời giáo huấn của thầy bổn sư, y chỉ quán thông kinh điển. Bấy giờ các thánh cảnh linh tích ở xứ Hiền Ðậu vẫn còn tồn tại. Do đó, Ngài theo vị thầy bổn sư để chiêm ngưỡng lễ bái. Vào năm hai mươi bảy tuổi, lúc được ba hạ, Ngài và thầy bổn sư cùng các vị sa môn khác đồng kết chí du phương hoằng pháp. Mới đầu, tổng cộng có mười vị sa môn đồng xuất hành. Trên đường ghé ngang qua nước Ca Ty Thi, họ lưu lại nơi đó vài năm. Quốc vương thỉnh cầu ngài Xà Nhã Na Bạt Ðạt La (thầy bổn sư của ngài Xà Na Quật Ða) làm quốc sư, khiến ban ích lợi cho quốc dân không ít.

Sau này, họ đến ngọn Tây Túc thuộc dãy Ðại Tuyết Sơn. Ngọn núi Tây Túc cao chót vót, thấu tận trời xanh. Kế đến, họ qua nước Yểm Ðát. Nơi đó hoang dã, dân chúng thưa thớt, không có ai cúng dường thực phẩm. Vì vậy, ngài Xà Na Quật Ða xả đại giới mà tận lực để tìm thức ăn, hộ trì đoàn hoằng pháp. Thời gian sau, được thần linh che chở hộ trì, họ thoát nạn đói, nơi miền hoang dã. Họ tiếp tục đến nước Kiệt La Bàn Ðà và Vu Ðiền. Nơi đó, họ gặp mưa gió tuyết rét lạnh, nên tạm dừng lại, mà chưa hoằng hóa. Chẳng bao lâu, họ lại sang Thiện Châu. Bấy giờ là nhằm vào đời Tây Ngụy, niên hiệu Ðại Thống nguyên niên (535). Tuy gặp bao gian nan nguy hiểm mà tâm Ngài vẫn dõng mãnh tinh tấn. Từ lúc khởi hành, có mười người, nhưng khi đến đó thì chỉ có bốn người còn sống sót. Vào đời Chu Minh Ðế, niên hiệu Võ Thành (557-560), họ đến Trường An, tạm lưu trú tại chùa Thảo Ðường. Nơi đó, ngài Xà Na Quật Ða đăng tịnh đàn, thọ lại giới cụ túc, rồi tinh tấn tu hành, từ từ học tiếng Tàu. Biết thanh danh vị thầy bổn sư (tức Xà Nhã Na Bạt Ðạt La), Chu Minh Ðế triệu thỉnh vào hoàng cung vấn đạo, đàm luận Phật pháp, rồi cúng dường lễ vật trong cấm cung. Thấy không được tự do nơi cung cấm, nên thầy trò ngài Xà Na Quật Ða trình lên với Chu Minh Ðế. Nhà vua bèn ra lịnh xây chùa Tứ Thiên Vương để thầy trò của Ngài được cư trú, và phát khởi công tác phiên dịch kinh điển, như kinh Thập Nhất Diện Quán Âm, Kim Tiên Vấn, v.v...

Sau này Tiếu Vương Tự Văn Kiệm sang trấn nhậm đất Thục, bèn thỉnh đồng hành. Vì vậy, họ theo ông ta qua đó, trụ tại chùa Long Uyên. Ngài Xà Nhã Na Bạt Ðạt La nhậm chức Tăng Chủ ở ích-châu, và phiên dịch Quán Âm Kệ, kinh Phật Ngữ, v.v...

Lúc Kiện Ðức Võ Ðế mộ đạo giáo mà hủy phá Phật giáo, bắt tăng chúng hoàn tục. Ông lại bắt ngài Xà Na Quật Ða vào kinh đô, bức bách uống rượu, thi lễ, nhưng Ngài vẫn kiên trì giữ giới, không lộ chút sợ hãi. Võ Ðế thấy chí khí cang cường, nên thả Ngài trở về chùa. Từ Cam Châu hướng đến Ðột Quyết, thì thầy bổn sư (tức Xà Nhã Na Bạt Ðạt La) muốn trở về phương tây để nhập diệt. Ðến Ðột Quyết, thầy trò lưu lại. Chẳng bao lâu ngài Xà Nhã Na Bạt Ða La nhập diệt. Ngài Xà Na Quật Ða một hình một bóng, không có chỗ an trú.

Ngài đến vùng Bắc Ðịch, tùy phương tiện hoằng hóa lợi sanh. Ðến niên hiệu Khai Hoàng thứ năm (585), tại chùa Ðại Hưng Thiện, sa môn Ðàm Duyên cùng hơn ba mươi sa môn khác khởi sự phiên dịch. Nghe Xà Na Quật Ða trú tại Bắc Ðịch, họ bèn dâng tấu cầu thỉnh Ngài trở về kinh đô. Nhà vua liền ban sắc lịnh, cầu thỉnh bốn lần, mà Ngài vẫn không đi, trú nơi đó đến mười năm. Sau này, vì cảm thấy thế nhân biết trọng Tam Bảo, nên Ngài trở về kinh đô. Bấy giờ Văn Ðế đang trú tại Lạc Dương, nghe tin Ngài đến kinh đô nên rất vui mừng, tới vấn an, và cung thỉnh phiên dịch kinh điển. Thấy những kinh điển mới vừa được phiên dịch, lời văn rất thô sơ, và văn nghĩa chưa rõ ràng, nên Ngài cực lực kiểm thảo, nhuận sắc, trau chuốt lại. Bấy giờ ngài Na Liên Ðề Lê Da Xá đã nhập diệt, nên chỉ còn một mình ngài Xà Na Quật Ða nhận lấy trọng trách kiểm duyệt kinh điển. Ngài lại mời hai anh em dòng bà la môn là Cao Thiên Thủ và Cao Hòa Nhân, trợ giúp duyệt bản kinh tiếng Phạn. Lại có mười vị danh đức sa môn như Tăng hưu, Pháp Kinh, v.v... giúp Ngài hiệu đính, thuyên định tông chỉ.

Cách Vu Ðiền về phía đông nam hai ngàn dặm có nước tên là Giá Câu Già. Quốc vương tín phụng đại thừa Phật giáo. Trong trung điện có chứa ba ba kinh Ma Ha Bát Nhã, Ðại Tập Hoa Nghiêm. Quốc vương thường tự chia thời khoá tụng đọc, dâng hương hoa cúng dường. Về phía đông nam của nước này có một ngọn núi coa chót vót. Bên trong có một hang động thâm u, chứa tám bộ kinh Ðại Tập, Hoa Nghiêm, Phương Ðẳng, Bảo Tích, Lăng Già, Phương Quảng, Xá Lợi Phất Hoa Tụ Nhị Ðà la Ni Ðô Tát La Tạng, Ma Ha Bát Nhã. Bát Nhã và Ðại Tập có mười hai bộ, khoảng một trăm ngàn bài kệ. Quốc pháp tương truyền phòng vệ thủ hộ. Ngoài ra, có ba vị A La Hán đang nhập diệt tận định trong hang đó. Mỗi nửa tháng, chư tăng trên núi đến đó, cạo râu tóc cho ba vị A La Hán. Quốc vương nước đó dùng nhân pháp mà trị vì. Dân chúng đều dốc lòng tín phụng Phật pháp.

Ngài Xà Na Quật Ða đạo tánh thuần hậu, thần chí kiên cường đoan chánh, mến đức hạnh; không nhàm chán cầu pháp, uyên bác ba tạng kinh điển, nghiên cứu thâm sâu tông chỉ chân yếu; học hết ngũ minh, thông suốt thế luận; hành đạo đắc được chỉ thú, tổng trì lý giải thần chú; suốt đời thường đắp ba y ca sa, ngày dùng một buổi, nhân từ cứu người tế vật chẳng cần đợi thỉnh cầu; mãi chuyên cần đọc tụng kinh điển, khiến sĩ thứ khâm trọng, đạo tục tôn sùng. Tùy Ðằng Vương sùng kính ngưỡng vọng giới đức của Ngài nên tôn làm thầy.

Ðến niên hiệu Khai Hoàng thứ mười hai (592), ngài Xà Na Quật Ða nhập diệt, thọ bảy mươi tám tuổi. Từ lúc sang Ðông Ðộ, Ngài phiên dịch được ba mươi bảy bộ kinh, và một trăm bảy mươi sáu quyển, như kinh Phật Bổn Hạnh, Tập Pháp Cự, Oai Ðức Hộ Niệm, Hiền Hộ, v.v... Văn dịch lưu loát, phù hợp viên dung với giáo lý. Xưa kia Tùy Cao Tổ ban sắc lịnh cho ngài Xà Na Quật Ða cùng sa môn Nhã Na Kiệt Ða (người Tây Vực), v.v... tại nội sử nội tỉnh, phiên dịch Phạn văn cổ điển. Ðến niên hiệu Khai Hoàng thứ mười hai thì hoàn tất.

47. Ngài Ðạt Ma Cấp Ða (Dharmagupta, dịch là Pháp Mật).

Ngài Ðạt Ma Cấp Ða vốn là người nước Hiền Ðậu La La, thuộc dòng Sát Ðế Lợi, tục tánh là Tệ Na Già La (gọi là Hổ Ðể), là người lớn nhất, có bốn người em. Cha mẹ lưu luyến, không cho xuất gia. Song, Ngài dốc tín, mến mộ pháp môn, thâm nguyện xuất gia rời tục. Năm hai mươi ba tuổi, Ngài đến thành Kiện Noa Cứu Bạt Ðổ (dịch là Nhĩ Xuất). Tại vùng Cứu Ni (dịch là Hoàng Sắc Hoa Viên), có một ngôi Tăng Già Lam nổi tiếng. Nơi đó, ngài Ðạt Ma Cấp Ða được xuống tóc xuất gia. Năm hai mươi lăm tuổi, thọ giới cụ túc, và vẫn ở lại chùa tu học ba năm. Trong chùa có một vị A Xà Lê tên là Phổ Chiếu, thông suốt kinh luận của đại thừa và tiểu thừa, thường đi hành khất, cùng tu thiền pháp. Lúc ngài Phổ Chiếu được quốc vương nước Trá Ca thỉnh cầu sang đó giảng kinh pháp. Ngài Ðạt Ma Cấp Ða cũng theo qua nước đó. Một năm sau, ngài Phổ Chiếu trở về bổn quốc. Ngài Ðạt Ma Cấp Ða vẫn lưu trú nơi đó bốn năm, tại chùa Ðề Bà Tị Hà La (dịch là Thiên Du). Ðây là ngôi chùa mà tăng chúng đại thừa và tiểu thừa trong bốn phương đồng hội tụ đến để tu học, hầu mong sở kiến được tăng trưởng.

Thương nhân đi đường phía bắc Thiên Trúc thường băng ngang qua vùng này. Họ thường truyền tụng nhau rằng ở Ðông Vực có nước Ðại Chi Na (hay Chấn Ðán). Mới đầu, tuy nghe tên nước đó, nhưng Ngài chưa màng để ý đến. Sau này, Ngài cùng với sáu vị sa môn khác qua nước Ca Tý Thi, trú tại chùa Vương Tự. Ngài lại cùng bốn vị sa môn khác trú trong quốc thành đó hai năm liền. Trong thời gian này, Ngài đi khắp các tự viện để học tập kinh điển. Nước này vốn là nơi mà các thương nhân thường tụ hội, vì nằm trên tuyến đường bắc lộ. Các thương nhân cũng thường nói đến dân chúng ở nước Ðại Chi Na rất tín phụng ngôi Tam Bảo. Hai lần nghe qua nước Ðại Chi Na, khiến Ngài phát tâm du hành sang nơi đó để hoằng dương chánh pháp. Do đó, Ngài cùng với vài vị sa môn đồng hành, đến núi Tây Túc ở dãy Tuyết Sơn, nước Bạc Khư La, Ba Ða Xoa Noa, nước Ðạt Ma Tất Tu Ða. Tại những nước này, tuy không trú lại lâu, nhưng Ngài hiểu rõ phong tục, nghi thức tu hành ở trong các tự viện. Ngài lại đến nước Kiệt La Bàn Ðà, rồi lưu trú một năm, cũng chưa giảng kinh pháp. Ngài lại đến nước Sa Lặc. Một vị sa môn đồng hành bèn trở về bổn quốc, còn lại ba vị đồng cư trú nơi chùa Vương Tự. Ngôi chùa này do quốc vương Sa Lặc kiến tạo. Trong hai năm cư trú, Ngài vì chư tăng tại chùa đó mà giảng hai ngàn câu kệ của luận Niệm Phá để thuyết minh tam ấn, thuyết phá lý luận của ngoại đạo. Ngài lại giảng luận Như Thật, cũng có hai ngàn bài kệ, để phá văn nghĩa và luận của thế gian.

Kế đến, Ngài sang nước Quy Từ, trú tại chùa Vương Tự trong hai năm. Ngài cũng vì chư tăng nơi đó mà giảng Thích Tiền Luận. Vốn đốc tín đại thừa, nên khi nghe ngài Ðạt Ma Cấp Ða giảng giải bộ luận đó, quốc vương nước Quy Từ cũng được khai ngộ rất nhiều, nên ngày đêm thường đến vấn đạo. Vì có tâm nguyện sang Ðông Ðộ, nên Ngài không muốn luu lại nơi đó. Vì vậy, Ngài cùng với một vị tăng khác bí mật sang nước Ô Kỳ, trú tại chùa A Lan Noa, giảng luận Thông Tiền cùng kinh điển trong hai năm, rồi từ từ đến nước Cao Xương, đi tham quan các tự viện. Tại nước đó, rất nhiều tăng chúng chuyên học tiếng Tàu. Tuy ở lại hai năm, nhưng Ngài không giảng thuyết gì hết. Thứ đến, Ngài sang nước Y Ngô. Trên đường đến nước đó, Ngài vượt một bãi sa mạc không cỏ nước. Các vị đồng hành vì khát nước nên đều bỏ mạng trong bãi sa mạc. Riêng một mình Ngài mang kinh luận, cố men theo đường lộ, vượt núi non để tìm nước uống. Tìm không được nước, Ngài bèn rán sức niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm và tụng thần chú. Ðến tối, trời đột nhiên đổ mưa, khiến thân tâm Ngài sung mãn hân hoan. Ngài bèn trở lại con đường cũ, nhưng bốn bề hoang vắng, và bị lạc mất dấu tích cùng phương hướng. Song, Ngài vẫn tiến về phía trước, rồi đến Qua Châu, mới biết đường bắc lộ cong quẹo. Trên đường đi, các vị sa môn đồng hành, có người hoặc trở về Thiên Trúc, hoặc trú lại các vương quốc lân cận, hoặc đã mất mạng.

Trải qua bao gian nan khổ cực, cuối cùng một mình Ngài đơn độc đến kinh thành của Trung Thổ. Nghe tin Ngài đến, nhà vua ân cần tiếp đãi, tứ sự cúng dường, và thỉnh về trú tại các tự viện lớn. Vào tháng mười, niên hiệu Khai Hoàng thứ mười (590), chưa nghỉ ngơi xong, Ngài được nhà vua ban sắc lịnh phiên dịch kinh điển. Ngài sang chùa Ðại Hưng Thiện, bắt tay ngay vào việc phiên dịch. Nơi đó, Ngài thường tuyên giảng nghĩa lý thâm yếu của kinh luận đại thừa và tiểu thừa. Tuy có các người theo phái cựu học nghi ngờ, nhưng Ngài vẫn hoằng hưng chỉ thú kinh luận. Tánh của Ngài nhu hòa, nhân từ. Tâm chẳng rời đạo, ngôn hạnh tương dung. Giới đức thanh tịnh. Trí huệ thâm sâu uyên bác. Hiểu rõ tận nguồn cội kinh luận. Dung mạo đoan chánh, oai nghi hùng dũng, âm thanh đọc tụng kinh điển vang rền như sấm, lý lẽ thông trong ngoài, tánh thích cư nơi vắng lặng, chẳng thích tình lự, thường giáo huấn người không mỏi mệt, không màng nơi tiền tài vật chất, khiến người chưa gặp đều sanh tâm kính phục, và khiến người gặp mặt đều khởi tâm thâm tín.

Dương Ðế Ðịnh kính trọng và cúng dường Ngài thâm hậu. Vì muốn Phật pháp được hung thịnh, ông lại ban sắc lịnh lập đạo tràng dịch kinh tại Thượng Lâm Viên ở mé sông Lạc Thủy, để Ngài phiên dịch kinh luận cùng truyền bá chánh pháp. Chư danh sĩ nhất thời đổ về tham học với Ngài. Lần nọ, một bản kinh vừa được dịch ra, có thiếu vài đoạn. Vì đã tinh thâm liễu giải kinh luận, nên Ngài tự bổ túc vào để cho đầy đủ ý nghĩa. Tổng cộng, Ngài phiên dịch được bảy bộ kinh luận, hợp thành ba mươi hai quyển, như Khởi Thế Gian Duyên Sanh, Dược Sư Bổn Nguyện, NhIếp Ðại Thừa Bồ Ðề Tư Lương, v.v... Văn nghĩa gọn gàng, trong sáng, yếu chỉ minh bạch rõ ràng. Những bộ kinh luận do Ngài dịch đều được xếp đặt vào bộ 'Ðường Trinh Quán Nội Ðiển Lục'. Ðến niên hiệu Võ Ðức thứ hai, Ngài lại dịch thêm mười lăm quyển kinh Phổ Lạc.

Có sa môn Ngạn Tông, thông thạo tiếng Phạn-Hán, dựa theo những lời trần thuật của ngài Ðạt Ma Cấp Ða về những sự việc thấy nghe trên tuyến đường từ Thiên Trúc sang Trung Thổ, mà viết thành một bộ 'Ðại Tùy Tây Vực Truyện'. Trong bộ truyện này chia ra làm mười thiên: 1/ phương hướng, sự vật, 2/ khí hậu, 3/ cư xứ, 4/ chánh trị, 5/ học giáo, 6/ lễ nghĩa, 7/ thức ăn, 8/ y phục, 9/ tài nguyên, 10/ núi sông, thành ấp tục lạc, dân chúng.

48. Ngài Xà Ðề Tư Na.

Ngài là người nước Ma Kiệt Ðề ở trung Thiên Trúc, kiêm thông tam tạng, tinh tường thế luận cùng y thuật thế gian. Lần nọ, trong nước đó có một trận động đất dữ dội, khiến đất nứt ra, lộ một bia đá, viết:" Ở đông phương, có nước Chấn Ðán, danh Ðại Tùy, thành gọi là Ðại Hưng, vua là Kiên Ý kiến lập chùa tháp tín phụng Tam Bảo."

Thấy bia đá này, vua quan cùng dân chúng rất vui mừng hớn hở, cho là điềm lành hi hữu. Bấy giờ, tại Trung Thổ là nhằm vào niên hiệu Khai Hoàng thứ mười bốn (594). Ngài Xà Ðề Tư Na cùng với năm mươi tăng sĩ và cư sĩ xuất phát từ Vương phủ đi về hướng đông, để tìm linh tướng. Trên đường họ bị bọn cướp giết chết, chỉ còn vài người trốn thoát.

Sau chín năm, Ngài đến Trung Thổ vào niên hiệu Nhân Thọ thứ hai (602). Bấy giờ nhằm vào lúc Tùy Văn Ðế cầu được rất nhiều hạt xá lợi, và cho xây tháp cúng dường. Ngài vừa đến, liền được nhà vua thỉnh vào nội điện Ðại Bảo. Ðang lúc đàm luận với Ngài, nhà vua chợt đưa bốn ngón tay lên, rồi hỏi quần thần:

- Các khanh có biết ý Trẫm chăng?

Quần thần không ai đáp được. Nhà vua quay sang hỏi Ngài. Ngài đáp:

- Ý của đàn việt là bảo rằng bần đạo đã chứng tứ quả A La Hán. Song, điều này không thật.

Nghe lời này, nhà vua kinh dị. Kế đến, nhà vua thỉnh Ngài về trú tại một cung quán. Lần nọ, nhà vua lại hỏi:

- Tạo linh tháp khắp các châu quận. Song, có hai châu quận là Xiểm Châu và Tào Châu là nơi có nhiều điềm lành nhất. Vậy nên thờ ai?

Ngài bảo:

- Nên thờ Bồ Tát Ðịa Tạng tại Xiểm Châu. Tại Tào Châu, nên thờ Bồ Tát Quan Hoa Không Tạng.

- Thiên hoa giống như vật gì?

- Giống như miếng mi ca mỏng.

Nhà vua bèn bí mật lấy mi ca mỏng để làm thiên hoa. Người nhìn vào, không ai biết được. Sau này hoàng hậu băng hà, trên hư không lại có tiếng nhạc vang rền, cùng có mùi hương lạ bay tỏa khắp nơi. Nhà vua đem việc này đến vấn hỏi. Ngài đáp:

- Hoàng hậu đã vãng sanh sang cõi Tây Phương Tịnh Ðộ của Phật A Di Ðà, nên chư thiên khởi nhạc trời mà nghênh tiếp.

Nhà vua cho là điềm kỳ đặc, nên đem lễ vật mà tặng thưởng, nhưng Ngài không thọ nhận.

Sau này, không ai biết Ngài tịch vào lúc nào.

49. Ngài Ba La Pha Ca La Mật Ða La (Prabhakaramitra).

Ngài Ba La Pha Ca La Mật Ða La (dịch là Minh Trí Thức) là người trung Thiên Trúc, thuộc dòng Sát Ðế Lợi, tục tánh Sát Lợi Ðế, xuất gia từ năm mười tuổi, tụng thuộc kinh đại thừa cả trăm ngàn câu kệ. Thọ giới cụ túc xong, Ngài chuyên cần học luật tạng, uyên bác nơi giới luật, tâm thích thiền pháp, nên theo chư thạc đức tu tập thiền định, mà không xả bỏ kinh điển suốt mười hai năm trường. Sau này, Ngài đến tu viện Na Lan Ðà ở nước Ma Già Ðà (hay Ma Kiệt Ðà). Nơi đó, gặp lúc luận sư Giới Hiền đang hoằng dương luận Thật Thất Ðịa, nên Ngài bèn ở lại nghe giảng giải. Luận này hiển minh tiểu giáo. Ngài lại tụng đọc thông suốt các luận tiểu thừa. Nhờ khí chất thông minh uyên bác, Ngài nghiên cứu tinh tường giáo lý đại tiểu thừa. Ngài lại làm bậc giáo thọ sư cho các đồng học, cùng hóa độ tăng chúng, và thường diễn giảng những bộ kinh như Bát Nhã Nhân Ðà La Bạt Ma, v.v..., khiến các học nhân đều thâm đạt nghĩa lý u huyền. Danh vang pháp hóa của Ngài, khiến vua quan triều thần đều phải kính phục. Song, người xuất gia chẳng thường trú ở một phương. Tùy theo duyên pháp, cứ khoảng sáu tháng, Ngài di chuyển một lần. Vì dân Bắc Ðịch Ðột Quyết chưa biết đến Phật pháp, nên Ngài đến đó để giáo hóa. Lần hồi, Ngài cùng với chư tăng kẻ tục khoảng mười người đi về phương bắc, đến phía tây Khả Hãn Thống Diệp Hộ (Jabgu), và dùng Phật pháp giáo hóa những kẻ chưa từng biết đến chánh giáo, khiến Nhung Chúa thâm tín bội phục vô vàn, nên cấp cho hai mươi người để hầu hạ cung phụng ngày đêm. Các chư tăng kẻ tục đồng hành thấy ân đức giáo hóa của Ngài như thế, nên lại càng sanh tâm tín phục.

Năm 626, Cao Bình Vương sai sứ giả vào đất Phiên, nên gặp được Ngài, và được độ hóa. Sứ giả đem những lời đã được dạy, trở về thuật lại cho Cao Bình Vương. Thế nên, Cao Bình Vương bèn lại cho sứ thỉnh cầu Ngài đến Ðông Ðộ, mà quân thần Diệp Hộ đều lưu luyến không cho Ngài đi. Nhà vua nghe biểu tấu của Cao Bình Vương, bèn hạ lịnh cho Nhung Chúa phải đưa Ngài vào Trung Thổ. Thấy yếu thế, nên Nhung Chúa đành phải nhân nhượng mà để cho Ngài vào Trung Thổ cùng với Cao Bình Vương.

Năm đó, vào tháng mười hai, Ngài đến kinh đô. Vua ban sắc cho Ngài trú tại chùa Ðại Hưng Thiện, và thường sang đó vấn an đàm đạo về nghĩa lý u huyền. Ngài tùy theo cơ duyên mà đối đáp tường tận, khiến nhà vua rất mực tôn sùng, nên sai năm vị tăng làm thị giả hầu Ngài. Những lời của Ngài giảng giải đều không vượt ngoài kinh điển. Nhà vua lại ban sắc cho Ngài phiên dịch kinh điển, cùng mời mười chín danh tăng thạc đức đến hỗ trợ, như sa môn Huệ Thừa (lo việc đối chiếu nghĩa lý), sa môn Huyền Mô (lo việc chuyển ngữ), sa môn Huệ Tịnh, Huệ Minh, v.v... (lo việc trau chuốt lời văn), cùng trụ quốc thượng thư tả bộc và thái tử (lo việc hiệu đính giảo định), Quang Lộc đại phu thái phủ Khanh Tiêu Chương (lo việc giám hộ). Các quan triều cùng nhau tứ sự cúng dường thâm hậu. Ðầu tiên, Ngài dịch được kinh Bảo Tinh, rồi kế đến là kinh Thắng Quang, luận Bát Nhã Ðăng Ðại Trang Nghiêm; tổng cộng là ba bộ cùng ba mươi lăm quyển. Sáu năm sau, Ngài thảo duyệt, trau chuốt lời văn cho lưu loát, rồi dâng lên nhà vua xem xét. Sau khi duyệt xem tường tận, nhà vua bèn ra lịnh sao chép mười bộ để lưu truyền trong nước. Nhà vua lại trọng thưởng Ngài thâm hậu, và ra lịnh cho thái tử viết lời tựa cho các quyển kinh luận vừa được phiên dịch. Ngài cũng thường giảng kinh luận cho các quan triều danh sĩ.

Sa môn Huệ Giai, là vị tăng tài trí bạt quần, nói với quan sử giám hộ:

- Ngài Ba La Pha Ca La Mật Ða La từ phương xa muôn dặm đến Ðông Hạ chẳng vì lợi danh, mà chỉ vì muốn khiến đạo lưu truyền ngàn năm, pháp âm vang thiên cổ. Xưa kia, trong hai đời vua Phù Kiên và Dao Hưng, các học sĩ phiên dịch kinh có cả ba ngàn vị. Hiện tại, ở đời Ðường, chỉ có hơn hai mươi người tham gia phiên dịch. Vậy xin quan hãy tấu trình việc này lên với Hoàng Thượng, để cho người thêm phụ giúp việc dịch kinh, hầu mong hậu thế không nghi ngờ.

Do thệ nguyện hoằng dương Phật pháp, Ngài không màng bao gian nan nguy hiểm, đi hơn bốn mươi ngàn dặm, vượt ngọn Thông Lĩnh, băng qua các bãi sa mạc cùng núi sông hiểm trở, tự mang kinh điển để sang nước Chấn Ðán phiên dịch. Song, chí nguyện chưa được hoàn mãn, mà chẳng biết thố lộ cùng ai, nên cảm bịnh. Tự biết chẳng cứu trị nổi, Ngài bèn phân phát vật dụng, tạo các tịnh nghiệp, rồi ngồi thẳng trước chánh điện chùa Thắng Quang, chánh tâm quán tượng Phật, rồi thị tịch, thọ sáu mươi chín tuổi vào năm 633. Ðông cung thái tử sai hai mươi người thỉnh nhục thân của Ngài lên núi để làm lễ trà tỳ. Sau đó, sa môn Huyền Mô bèn thâu nhặt xá lợi và đặt trong tháp thờ phụng tại chùa Thắng Quang, vào mồng sáu tháng tư, niên hiệu Trinh Quán thứ bảy. Bao năm Ngài cống hiến công sức phiên dịch, hầu mong ngọn đuốc chánh pháp soi sáng cho những kẻ u mê. Song, thệ nguyện hoằng pháp chưa hoàn thành mà Ngài đã nhập diệt, khiến cho hậu thế bàng hoàng thương tiếc ngưỡng mộ.

50. Tam tạng pháp sư Na Ðề (Punyopaya, dịch là Phước Sanh).

Ngài vốn là người Trung Thiên Trúc, xuất gia từ thuở nhỏ, được các danh sư khai ngộ, có chí khí cùng hoài bão hoằng pháp ở phương xa. Vì vậy, Ngài chu du khắp các vương quốc để khai đạo chúng dân. Sau này, Ngài đến nước Sư Tủ, tới núi Lăng Già ở miền đông nam, qua các nước ở Nam Hải, mà tùy duyên giáo hóa. Nhờ thông thạo nhiều ngôn ngữ các quốc gia, nên Ngài thường diễn kinh thuyết pháp, độ người lập chùa. Tại Thiệm Châu, phía đông nước Chi Na, Ngài hoằng dương giáo pháp đại thừa, khiến Phật pháp được hưng thịnh. Ngài lại mang một ngàn năm trăm kinh luận đại tiểu thừa, đến kinh đô Trung Thổ vào niên hiệu Vĩnh Huy thứ sáu (655).

Ðương thời, thanh danh của pháp sư Huyền Trang vang dội khắp nơi, chẳng có ai sánh bì kịp. Vì vậy, ngài Na Ðề đành cam ẩn dật. Niên hiệu Hiển Khánh nguyên niên (656), Ðường Cao Tông ban sắc lịnh cho ngài Na Ðề sang các nước Côn Lôn để tìm thuốc lạ. Ðến Nam Hải, các quốc vương đồng cung nghinh quy y, lập chùa, để Ngài giáo hóa chúng dân. Công nghiệp hoằng pháp hiển đạt. Song, vì Ngài theo lịnh của vua Ðường mà qua đến các nước ở Nam Hải, và vì muốn trở về Trung Thổ để nghiên tầm thêm các kinh điển bằng tiếng Phạn, nên vào niên hiệu Long Sóc thứ ba (663), Ngài trở về chùa Từ Ân ở Ðông Ðộ. Nơi đó, Ngài chỉ dịch được ba bộ kinh như Nhập Mạn Trà La Lễ Phật Pháp, A Trá Na Trí, v.v... Nghĩa lý thâm sâu, lời văn điêu luyện.

Năm đó, do sự giáo hóa của Ngài, quốc vương nước Chân Lạp bèn phái các danh sư sang Trung Thổ cầu thỉnh:

- Nước chúng tôi có nhiều thuốc lạ, mà chỉ có ngài Na Ðề là biết cách tìm. Xin hãy ban sắc cho ngài Na Ðề sang bổn quốc.

Ðường Cao Tông định ban chiếu chỉ cho ngài Na Ðề đi, nhưng bị các quan triều cùng danh sĩ bẩm tấu:

- Tam tạng pháp sư Na Ðề vốn là môn đồ của Bồ Tát Long Thọ, nên lý giải về Vô Tướng thật vượt xa Huyền Trang.

Các vị Phạn tăng Tây Vực cũng bẩm tấu:

- Sau khi Ðại Sư (Bồ Tát Long Thọ) nhập tịch, ngài Na Ðề là vị thâm giải lý Thật Tướng, đạt thấu tận đáy nguồn phương tiện tiểu thừa năm bộ Tỳ Ni cùng bốn bộ Vệ Ðà của ngoại đạo, thông minh ngôn nghĩa, lời như châu ngọc, tiếng như sấm vang, trước luận đại thừa hơn bốn mươi bộ, đang sắp phiên dịch.

Ngàn năm một thuở, đường xa vạn dặm Ngài mang đạo đến phương bắc mà không được hậu đãi, nhưng lại bị đưa về miền nam, gặp sơn lam chướng khí, khiến cảm bịnh rồi thị tịch. Thật tiếc thay cho một bậc long tượng của đạo pháp.

51. Ngài Nhã Na Bạt Ðà La (Jnanabhadra, dịch là Trí Hiền).

Ngài là người nước Ha Lăng, thông suốt ba tạng kinh điển. Trong niên hiệu Lân Ðức (664-665), sa môn Hội Ninh ở Thành Ðô, vì muốn sang Thiên Trúc để chiêm bái các thánh tích, nên theo thương thuyền đi về hướng tây. Giữa đường, thuyền tại nước Ha Lăng. Sa môn Hội Ninh cùng ngài Nhã Na Bạt Ðà La dịch hai quyển phần sau của kinh Niết Bàn, từ bộ kinh A Cấp Ma. Phần này nói về những sự việc xảy ra sau khi làm lễ trà tỳ kim quan của đức Thế Tôn như thâu nhặt Xá Lợi, v.v..., nhưng không đồng với bộ kinh Niết Bàn đã được phiên dịch. Dịch xong, bộ kinh này được gởi đến Giao Châu (Việt Nam). Ðô đốc Giao Châu là Lương Nan Dịch nhờ sa môn Vận Kỳ mang bộ kinh này vào kinh đô. Sa môn Hội Ninh lại sang Tây Vức.

52. Ngài Phật Ðà Ða La (Buddhatrata, dịch là Giác Cứu).

Ngài là người nước Kế Tân ở bắc Thiên Trúc. Ngài phát nguyện sang hóa độ dân Chi Na, nên qua Ðông Ðộ truyền pháp, trú tại chùa Bạch Mã, phiên dịch kinh Ðại Phuơng Quảng Viên Giác Liễu Nghĩa.

53. Ngài Phật Ðà Ba Lợi (Buddhapali, dịch là Giác Hộ).

Ngài là người nước Kế Tân ở bắc Thiên Trúc. Quên thân mạng hết lòng vì đạo, đi chiêm ngưỡng lễ bái hết các thánh tích. Nghe Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi ẩn tích tại núi Thanh Lương, không quản đường xá xa xôi, Ngài lặn lội đến núi Ngũ Ðài. Ðời Ðường Cao Tông, niên hiệu Nghi Phượng nguyên niên (676), Ngài chống tích trượng đến núi Ngũ Ðài, khẩn thành lễ bái, lệ rơi như mua, mong mỏi được xem dung mạo Bồ Tát. Lát sau, một ông lão từ trong núi đi ra, nói tiếng bà la môn (tức tiếng Phạn):

- Thầy cầu việc gì?

Ngài đáp:

- Nghe Bồ Tát Văn Thù ẩn tích tại núi này, nên từ Thiên Trúc sang đến đây để chiêm bái.

- Thầy từ Thiên Trúc sang. Vậy có mang theo kinh Phật Ðảnh Tôn Thắng Ðà La Ni chăng? Nơi đây, chúng sanh tạo rất nhiều nghiệp ác. Các người xuất gia cũng phạm giới rất nhiều. Thần chú Phật đảnh có thể thầm mật giúp họ tiêu trừ nghiệp tội. Nếu không đem quyển kinh này, thì có tới đây cũng vô ích. Dẫu có gặp Bồ Tát Văn Thù, nhưng cũng không thể nhận ra. Thầy nên trỏ về Tây Vực để thỉnh bộ kinh đó, hầu mong lưu truyền nơi nước này. Ðó là phụng hành lời dạy của chư thánh chúng, thường quảng độ quần sanh, tức là trực tiếp báo từ ân của chư Phật.

Nói xong, ông lão biến mất. Ngài lại càng thâm tín lễ lạy gấp bội, và lập tức trở về Thiên Trúc. Thỉnh được quyển kinh đó, rồi trở lại Ðông Ðộ. Ðường Cao Tông thấy Ngài chân thành tôn sùng quyển kinh bí mật đó, nên cho vời sa môn Ðiển Khách ở chùa Hồng Lư và tam tạng pháp sư Nhật Chiếu vào kinh đô cùng cộng tác phiên dịch. Phiên dịch xong, nhà vua ban thưởng cho Ngài ba mươi xấp lụa, và giũ ở lại hoàng cung. Ngài rơi lệ thưa với nhà vua:

- Tôi xả thân mạng vì có chí nguyện lợi sanh. Xin Hoàng Thượng hãy cho lưu bố bộ kinh này.

Nhà vua thấy Ngài rất mực chân thành, nên trả lại quyển kinh bằng chữ Phạn, và giữ bản văn dịch. Lấy lại được nguyên bản chữ Phạn, Ngài vui mừng đến chùa Tây Minh, cùng sa môn Thuận Trinh (thông thạo tiếng Phạn) đồng dâng sớ xin phiên dịch. Nhà vua vừa chấp thuận, Ngài và sa môn Thuận Trinh cùng chư đại đức đồng phiên dịch, gọi là kinh Phật Ðảnh Tôn Thắng Ðà La Ni. Lần phiên dịch này, về phần chân ngôn thần chú có khác với các nhà dịch giả lúc trước (tức sa môn Ðiển Khách và Nhật Chiếu). Dịch xong, Ngài bèn đem bản kinh chữ Phạn đến Ngũ Ðài, rồi ẩn tu tại hang động Kim Cang. Hiện nay, tại Vĩnh Hưng Long Thủ Võng còn thờ phần xá lợi của ngài Phật Ðà Ba Lợi.

Vào niên hiệu Ðại Lịch (766-779), sa môn Pháp Chiếu ở chùa Vân Phong tại núi Nam Nhạc, vào núi Ngũ Ðài, lễ bái trong hang động Kim Cang. Trời vừa chập tối, Pháp Chiếu chợt thấy một vị Phạn tăng cao bảy thước, nói tiếng Phạn rõ ràng, và tự xưng là Phật Ðà Ba Lợi, hỏi:

- Thầy lễ bái nhọc nhằn ở đây, vậy nguyện muốn gì?

Pháp Chiếu thưa:

- Con nguyện muốn thấy Bồ Tát Văn Thù.

- Nếu chí thành kiên cố chân thật không hư vọng, thì Thầy có thể bước qua tấm vách này, và trong gang tấc sẽ thấy rõ tôn nhan của Bồ Tát.

Pháp Chiếu vừa nhắm mắt thì thân đã vào trong hang sâu, thấy một đại viện, đề viết 'Chùa Kim Cang Bát Nhã'. Những chữ này tỏa ánh hào quang rực rỡ. Ðại viện đó trang nghiêm tráng lệ không thể diễn tả. Nơi trú của Bồ Tát Văn Thù cực kỳ tôn nghiêm. Bồ Tát tuyên nói những lời an ủi, cùng đua trà cho Pháp Chiếu uống. Sau đó, ngài Phật Ðà Ba Lợi dẫn Pháp Chiếu ra khỏi đại viện. Tuy Pháp Chiếu khẩn cầu trú lại trong đại viện, nhưng ngài Phật Ðà Ba Lợi không hứa khả, mà khuyên rằng phải nên nỗ lực cần mẫn tu hành thì sau này trở lại, mới có thể trú tại đại viện. Pháp Chiếu vừa bước ra ngoài tấm vách, và xoay đầu lại, thì không còn thấy ngài Phật Ðà Ba Lợi nữa.

54. Ngài Già Phạm Ðạt Ma (Bhagavaddharma, dịch là Tôn Pháp).

Ngài là người tây Thiên Trúc, vượt các bãi sa mạc, đường xa muôn dặm đến Trung Thổ, chí nguyện hoằng dương Phật pháp, chuyên tâm nơi phiên dịch kinh điển. Trong niên hiệu Vĩnh Huy (650-655), Ngài dịch kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Ðại Viên Mãn Vô Ngại Ðại Bi Tâm Ðà La Ni.

55. Ngài Di Ðà Sơn (Mitrasanata, dịch là Tịch Hữu).

Ngài là người nước Ðổ Hóa La, xuất gia từ thuở nhỏ, đi chu du khắp Thiên Trúc, học thông cùng cực kinh luận, Lăng Già, Câu Xá. Ngài đến Ðông Ðộ, cùng với ngài Thật Xoa Nan Ðà dịch kinh Ðại Thừa Nhập Lăng Già. Ngài lại cùng với ngài Ðạt Ma Ða La dịch kinh Vô Cấu Tịnh Quang Ðà La Ni. Sau đó, Ngài trở về bổn quốc.

56. Ngài A Di Chân Na (Ratnacinta, dịch là Bảo Tư Duy).

Ngài là người nước Ca Thấp Di La ở bắc Thiên Trúc, xuất gia từ thuở nhỏ, thường tu thiền định. Thọ giới cụ túc xong Ngài chuyên ròng về luật phẩm, huệ giải siên quần hơn người, thông giải chân đế và tục đế, biết rành về diệu xảo chú thuật. Do tâm muốn hóa đạo, Ngài đến Lạc Dương vào năm 693, và được sắc lịnh an trú tại chùa Thiên Cung, rồi khởi công phiên dịch kinh điển. Năm 706, Ngài dịch được bảy bộ kinh Bất Không Quyến Tác Ðà La Ni. Từ đó, Ngài không còn phiên dịch bộ kinh nào nữa, chỉ tinh cần lễ bái đọc tụng kinh điển, và làm việc phúc đức. Ngày ngày, Ngài dùng nước hương để lau chùi tượng Phật. Ngài thường mang bình bát đi khất thực và cũng bố thí lại cho những kẻ nghèo đói. Tại núi Long Môn, Ngài xây một ngôi chùa theo kiểu Tây Vực, và gọi là chùa Thiên Trúc. Môn đồ thường cư trú trong chùa đó. Do lòng chân thành tinh cần tu hành, Ngài đạt được rất nhiều điềm linh ứng. Ngài thị tịch vào năm 721, thọ hơn một trăm tuổi.

57. Ngài A Ðịa Cù Ða (Atigupta, dịch là Vô Cực Cao).

Ngài là người trung Thiên Trúc, học rộng uyên bác, cùng thông hết chữ nghĩa, đức hạnh thanh khiết tròn đầy, tinh tường ngũ minh, thấu suốt ba tạng kinh điển. Vào tháng giêng, niên hiệu Vĩnh Huy thứ ba (652), từ tây Thiên Trúc, Ngài mang kinh điển chữ Phạn đến Trường An. Nhà vua ban sắc cho Ngài trú tại chùa Từ Minh. Hai mươi tám tăng sĩ cùng danh sĩ như Ðại Thừa, Anh Công Lý, v.v... tại chùa Huệ Nhật, viện Phù Ðồ, đồng cung thỉnh Ngài kiến lập đàn tràng Ðà La Ni. Ngài ứng thuận theo lời cầu thỉnh mà tác pháp. Bấy giờ, trong đại chúng có rất nhiều người được bao điềm cảm ứng linh dị, nên chư tăng kẻ tục tại kinh đô đồng vui mừng tán thán. Vì vậy, chư sa môn đồng cung thỉnh Ngài dịch kinh pháp đó. Ngài rút ra từ bộ kinh Kim Cang Ðại Ðạo Tràng mà dịch từng tập, thành một bộ mười hai quyển, gọi là kinh tập Ðà la Ni. Sa môn Huyền Giai ghi chép.

58. Ngài Bát Lật Mật Ðế (Pramiti, dịch là Cực Lượng).

Ngài là người trung Thiên Trúc, có hoài bão tùy duyên tế sanh độ vật, nên du hóa khắp nơi, rồi từ từ sang Chi Na, đến Quảng Châu trụ tại chùa Chế Chỉ. Nơi đó, vào ngày hai mươi ba tháng năm niên hiệu Thần Long nguyên niên (705) đời Ðường Trung Tông, thể theo lời cầu thỉnh của đại chúng, Ngài rút ra từ bộ Quán Ðảnh, mà dịch ra thành một phẩm, được một bộ mười quyển, gọi là Ðại Phật Ðảnh Như Lai Mật Nhân, Tu Chứng Liễu Nghĩa, Chư Bồ Tát Vạn Hạnh, Thủ Lăng Nghiêm Kinh. Sa môn Di Già Thích Ca (người Ô Trường) chuyển Ngữ. Bồ tát giới đệ tử Tiền Chánh Nghị đại phu đồng trung thư, môn hạ bình chương Thanh Hà Phòng Dung ghi chép. Sa môn Hoài Ðịch ở chùa Nam Lâu, núi Phù Sơn, tại Tuần Châu, kiểm chứng văn phiên dịch. Quốc vương ở trung Thiên Trúc, nghe tin ngài Bát Lạt Mật Ðế dịch bộ kinh này tại Trung Thổ, nổi giận (vì bộ kinh này được xem là quốc bảo) lôi đình, sai người truy tìm. Ngài bèn mang nguyên bản chữ Phạn trở về bổn quốc, vì chúng sanh mà chịu tội với triều đình.

59. Ngài Thật Xoa Nan Ðà (Siksamanda, dịch là Học Hỷ).

Ngài là người nước Vu Ðiền ở phía bắc ngọn Thông Lĩnh, tài trí quảng bác, phong cách phi phàm, tinh tường kinh điển đại thừa và tiểu thừa, biện thông các dị học thế gian. Thiên Hậu (Võ Tắc Thiên) sùng tín Phật pháp, hưng duơng chánh giáo. Bà vốn tín phụng đại thừa, mà bộ kinh Hoa Nghiêm chưa được dịch xong. Nghe nước Vu Ðiền có bản chữ Phạn, nên Thiên Hậu sai sứ sang đó, thỉnh cầu chư sa môn phiên dịch. Vì vậy, Ngài mang bộ kinh này sang Trung Thổ. Niên hiệu Chứng Thánh nguyên niên (695), tại chùa Ðại Biến Không ở Ðại Nội, nơi Ðông Bộ, Ngài khởi sự phiên dịch. Thiên Hậu đích thân đến pháp tòa, viết lời tựa. Sa môn Bồ Ðề Lưu Chí (người nam Thiên Trúc), sa môn Nghĩa Tịnh đồng tụng đọc chữ Phạn; sa môn Phục Lễ, Pháp Tạng, v.v... ghi chép. Bộ kinh Hoa Nghiêm được dịch thành tám mươi quyển, đến năm 699 thì hoàn tất. Kế đến, Ngài dịch kinh Ðại Thừa Nhập Lăng Già vào năm 700. Thiên Hậu cũng đích thân viết lời tựa. Tại chùa Thanh Thiền ở kinh sư và chùa Phật Thọ Ký ở Ðông Ðô, Ngài dịch kinh Văn Thù Thọ Ký, v.v... Tổng cộng dịch được mười chín bộ. Sa môn Ba Lôn, Huyền Quỹ, v.v... ghi chép. Sa môn Phục Lễ hiệu đính lời văn. Sa môn Pháp Bảo, Hằng Cảnh, v.v... kiểm chứng nghĩa lý. Thái tử Trung Xá Cổ Ưng Phước giám hộ.

Trú tại Trường An bốn năm, nghe người mẹ vừa qua đời, Ngài bèn dâng sớ xin trở về bổn quốc. Quan ngự sử Hoặc Từ Quang đưa Ngài trở về nước Vu Ðiền. Ðường Trung Tông, niên hiệu Cảnh Long (708), lại ban sắc lịnh cho vời Ngài trở lại kinh đô. Ngài vừa đến kinh đô, nhà vua đích thân ra ngoài cửa Khai Viễn mà nghinh đón, và sai quân mang tràng phan bảo cái để tiếp rước, cùng trang hoàng một thớt voi, thỉnh Ngài vào cung thành, trú nơi chùa Ðại Tiến Phước. Rủi thay, chưa tiếp tục xúc tiến việc phiên dịch kinh điển thì Ngài bị nhiễm bịnh, rồi thị tịch vào ngày mười hai tháng chín, niên hiệu Cảnh Vân nguyên niên (710), thọ năm mươi chín tuổi. Triều đình theo pháp thức nước Vu Ðiền mà làm lễ trà tỳ. Hỏa táng xong, thân thể tan rụi hết, nhưng cái lưỡi vẫn còn nguyên vẹn. Môn đồ dâng sớ, cung thỉnh lưỡi của Ngài trở về nước Vu Ðiền, xây tháp cúng dường. Người sau, xây một ngôi tháp bảy tầng nơi trà tỳ nhục thân của ngài Thật Xoa Nan Ðà. Chư tăng kẻ tục gọi đó là tháp Hoa Nghiêm Tam Tạng.

60. Ngài Ðịa Bà Ha La (Divakara, dịch là Nhật Chiếu).

Ngài là người trung Thiên Trúc. Ngài là bậc thần đồng, mới có tám tuổi mà đã tinh thông ngũ minh. Thọ đại giới xong, Ngài chuyên cần nghiêm trì giới luật thanh cao, bác học uyên thâm, tinh thông chú thuật. Trong đời Ðường Cao Tông (674-683), Ngài đến Trung Thổ. Tháng năm, niên hiệu Nghị Phượng thứ tư (679), triều đình ban sắc cho Ngài phiên dịch những bộ kinh vừa đem qua. Y theo lệ trong đời của ngài Huyền Trang, triều đình cho Ngài cư trú một mình tại một ngôi chùa lớn, rồi cùng năm vị danh tăng phiên dịch kinh điển. Tại hai chùa đông tây Thái Nguyên ở hai kinh đô, Ngài dịch được mười sáu bộ kinh luận như Ðại Thừa Hiển Thức, Ðại Thừa Ngũ Uẩn Luận, v.v... Sa môn Chiến Ðà Bát Nhã Ðề Bà chuyển ngữ. Sa môn Huệ Trí kiểm chứng chữ Phạn. Triều đình cũng ban sắc cho chư sa môn danh đức hỗ trợ cho Ngài trong việc phiên dịch. Thiên Hậu cũng đích thân viết lời tựa. Ngài lại cùng với sa môn Giác Hộ dịch kinh Phật Ðảnh. Văn dịch gọn gàng uyển chuyển, nội dung hàm xúc, ý nghĩa hiển bày.

Sau này, Ngài nhập tịch ngay trong phòng phiên dịch, thọ bảy mươi lăm tuổi. Thiên Hậu sai quân mang linh cữu của Ngài quàn trên núi Hương Sơn ở Long Môn, Lạc Dương, cùng xây tháp cúng dường.

61. Ngài Ðề Vân Bát Nhã (Devaprajna, dịch là Thiên Trí).

Ngài là người nước Vu Ðiền, tinh thông giáo đại thừa và tiểu thừa, liễu giải tường tận hai pháp chân đế và tục đế, thấu triệt thiền môn và chú thuật. Năm 689, Ngài đến Lạc Duơng. Thiên Hậu ban sắc cho Ngài trú tại chùa Ngụy Quốc Ðông Tự để phiên dịch kinh điển. Từ năm đó đến năm 691, Ngài phiên dịch được sáu bộ và bảy quyển luận Hoa Nghiêm Kinh Pháp Giới Vô Sai Biệt. Sau này, không ai biết Ngài tịch ở đâu.

62. Ngài Thi La Ðạt Ma (Siladharma, dịch là Giới Pháp).

Ngài là người nước Vu Ðiền, thông thạo tiếng phạn và tiếng Tàu. Ngài là vị Ðại Pháp Sư ở Bắc Ðình (Dsimsa). Trong niên hiệu Trinh Quán (627-649), Ngộ Không trên đường từ Thiên Trúc trở về, ghé ngang qua Bắc Ðình, nơi chùa Long Hưng thỉnh pháp, và cầu Ngài làm Giảng Chủ. Ngài dịch kinh Thập Ðịa cùng kinh Hồi Hướng Luân. Sa môn Pháp Nhược đọc và chuyển ngữ. Pháp Siêu nhuận sắc. Sa môn Thiện tín kiểm chứng vă nghĩa. Ngộ Không kiểm chứng bản văn tiếng Phạn.

63. Ngài Bạt Nhật La Bồ Ðề (Vajrabodhi, dịch là Kim Cang Trí).

Ngài là người nước Ma Lại Da ở nam Thiên Trúc. Vương quốc đó gần núi Bổ Ðà Lạc Tiên (trong đó có cung điện Quán Âm). Người cha vốn thuộc dòng bà la môn, tinh thông luận ngũ minh, làm thầy của vua Kiến Chi.

Ngài Bạt Nhật La Bồ Ðề vừa chào đời vài năm thì đọc thuộc cả chục ngàn lời trong một ngày. Chuyên tâm thành ý xem kinh tạng suốt mãi không mỏi mệt. Năm mười sáu tuổi, đối với giáo lý Phật đà, Ngài đã khai ngộ, mà không thích các luận Ni Kiền Tử. Chẳng bao lâu, Ngài xuống tóc xuất gia, rồi ngày đêm tinh cần tu tập. Sau này, Ngài theo vị thầy bổn sư đến tu viện Na lan Ðà, học tập kinh luận như Tu Ða La A Tỳ Ðạt Ma, Trung Quán, Duy Thức v.v... Ngài lại tinh thông giới pháp, thấu suốt mười tám bộ luật. Ngài đến tây Thiên Trúc học các kinh luận tiểu thừa cùng môn Du Già Tam Mật Ðà La Ni. Ngài lại sang nam Thiên Trúc y theo ngài Long Trí học về Kim Cang Quán Ðảnh Hệ (thuộc tư tưởng Mật giáo) trong bảy năm. Hơn mười năm sau, Ngài hoàn toàn thông suốt ba tạng kinh điển. Ngài cũng đi lễ bái hết tất cả thánh tích. Kế đến, Ngài tới nước Sư Tử, lên núi Lăng Già, rồi đi qua hơn hai mươi nước ở phía đông. Lúc đến thánh địa của Bồ Tát Quán Thế Âm ở núi Phổ Ðà Lạc tại nam Thiên Trúc, và thấy Bồ Tát hiển hiện oai linh, nên Ngài đột nhiên phát nguyện sang truyền bá Phật pháp tại nước Chi Na. Lại nữa, nghe Phật pháp đang được hưng thịnh ở nước Chi Na, Ngài bèn theo thương thuyền đến phủ Quảng Châu vào năm 719. Ðường Huyền Tông nghe tin, bèn ban sắc lịnh thỉnh Ngài đến trú tại chùa Từ Ân. Tại chùa Tiến Phước, Ngài kiến lập đàn tràng Ðại Mạn Noa La Quán Ðảnh để độ bốn chúng đệ tử. Hai vị thiền sư Ðại Trí và Ðại Huệ, cùng tam tạng Bất Không, đồng lễ Ngài làm thầy.

Sau này, nhà vua thỉnh Ngài đến Lạc Dương. Trong năm đó, từ tháng giêng đến tháng năm, khắp nơi bị nạn hạn hán. Nhà vua đã lập đàn cầu mưa mà không được. Do đó, nhà vua bèn triệu thỉnh Ngài lập đàn tràng cầu mưa, và sai thiền sư Nhất Hạnh hầu cận cẩn mật. Ngài dùng pháp của Bồ Tát Bất Không Câu Y, lập đàn tràng ngay tại chùa. Ngài lại làm tượng Bồ Tát Thất Câu Chi bằng lụa, dài bốn khuỷu tay. Ðến sáng ngày thứ bảy, bầu trời vẫn không một bóng mây, và khí hậu vẫn nóng oi bức. Sau giờ ngọ, đột nhiên gió từ hướng tây bắc thổi đến, rồi mây vần vũ kéo tới, và mưa đổ xuống ào ạt. Hôm đó, có cả hàng chục ngàn người đến nơi đàn tràng. Người người xa gần đều lấy làm kinh ngạc về sự linh ứng thần dị của đàn tràng cầu mưa. Các sĩ thứ đều bảo nhau:

- Ngài Kim Cang Trí đã bắt được rồng.

Bấy giờ, nhà vua thường để tâm nơi lý u huyền chứ chưa trọng nơi pháp không môn. Do nghe lời sàm tấu, nhà vua bèn ra lịnh cho các tăng sĩ ngoại quốc người Phiên tộc phải trở về bổn quốc. Thị giả nghe tin này bèn trở về chùa thuật lại cho Ngài nghe. Ngài bảo:

- Ta là Phạn tăng chứ không phải Phiên Tăng. Sắc lịnh không rõ ràng, nên Ta không đi!

Qua vài ngày sau, tại Nhạn Môn, Ngài đột nhiên dâng sớ từ biệt nhà vua. Nhà vua kinh hoàng, lập tức ban chiếu chỉ giữ Ngài ở lại.

Cô công chúa thứ hai mươi lăm là Thậm Chung, rất được nhà vua thương mến, nhưng lại bị bịnh đã lâu mà không ai có thể cứu chữa được, nên suốt ngày nằm tại ngoại quán Hàm Nghi. Cô ta luôn nhắm mắt, và không nói lời nào suốt cả mấy tuần. Trước đó, cô ta cầu thỉnh Ngài đến ban giới pháp. Ngài biết rõ cô ta chắc phải chết. Song, nhà vua cứ nằng nặc cầu thỉnh Ngài cứu sống cô ta. Ngài bèn chọn ra hai tỳ nữ bảy tuổi, rồi lấy lụa bịt mắt lại, và cho nằm xuống đất. Kế đến, Ngài bảo Ngưu Tiên Ðồng vẽ một tấm bùa, rồi đốt ngay nơi chỗ công chúa Thậm Chung đang nằm. Thứ đến, Ngài đọc tụng thần chú. Bấy giờ hai tỳ nữ đọc theo Ngài mà không sai một chữ. Ngài bèn nhập vào tam ma địa (tam muội chánh định), và dùng thần lực bất tư nghị mà sai khiến hai tỳ nữ đem sắc chỉ đến gặp vua Diệm Ma. Trong khoảng khắc công chúa Thậm Chung tỉnh dậy, và mở mắt cùng nói chuyện như bình thường. Nhà vua nghe tin bèn lập tức một mình cỡi ngựa đến ngoại quán. Công chúa Thậm Chung bẩm tấu:

- Nghiệp lực khó chuyển. Hôm nay vua Diệm Ma sai con trở về để gặp mặt lại tôn nhan của thánh thượng mà thôi.

Nói xong, đến khoảng giữa trưa, bèn qua đời. Từ đó, nhà vua mới bắt đầu quy ngưỡng Tam Bảo.

Trong lục cung, nhà vua rất ân sủng yêu mến Võ Quý Phi như châu ngọc. Ngài khuyên bà Võ Quý Phi rằng hãy mau tạo tượng Bồ Tát Kim Cang Thọ Mạng. Ngài lại khuyên quận vưong ở Hà Ðông phải kết tượng Phật bằng lụa rồi đặt bên trong tháp Phật Tỳ Lô Giá Na. Ngài bảo môn đồ:

- Thọ mạng của hai người này chẳng được lâu.

Vài tháng sau, quả nhiên đúng như lời Ngài dự đoán. Ngài thường nói những lời tiên tri như thế rất nhiều, và đều linh ứng.

Ngài thông suốt lý sự, tinh tường kinh luận giới luật, thần chú. Ai có hỏi điều gì, Ngài bèn giải thích rõ ràng. Gặp mặt qua người nào thì Ngài nhớ mãi không quên. Những cảnh thuận nghịch, vui buồn giận thương đều không làm xao xuyến tâm Ngài, khiến ai ai cũng tôn sùng kính phục. Ngài thường y theo pháp thức mà lập đạo tràng mạn noa la (hay mạn đà la), và đều có cảm ứng.

Sa môn Nhất Hạnh khâm phụng sự giáo huấn của Ngài, nên được pháp quán đảnh.

Vì lợi sanh lợi vật, và thể theo sắc lịnh của nhà vua vào năm 723, tại chùa Tư Thánh, Ngài dịch được hai quyển Kim Cang Ðảnh Du Già Trung Lược Niệm Tụng Pháp (thuộc hệ Kim Cang của Mật giáo), và hai quyển Thất Cu Chi Ðà La Ni. Tại chùa Ðại Tiến Phước vào năm 730, Ngài dịch một quyển Mạn Thù Thất Lợi Ngũ Tự Tâm Ðà La Ni Quán Tự Tại Du Già Pháp Yếu Lược. Sa môn Trí Tạng chuyển ngữ. Sa môn Nhất Hạnh sao chép trau chuốt thành văn. Thấy trong quyển này có nhiều chỗ thiếu sót, nên Ngài bổ túc thêm vào cho đủ. Những ấn khế tổng trì do Ngài phiên dịch đều có linh nghiệm. Nhờ Ngài mà mật chú được lưu truyền khắp nơi, khiến rất nhiều người được cứu độ.

Vào tháng tám năm 732, tại chùa Quảng Phước ở Lạc Dương, Ngài bảo đồ chúng:

- Khi trăng tròn là lúc Ta sẽ viên tịch.

Nói xong, Ngài bèn đến lễ bái tượng Phật Tỳ Lô Giá Na, đi nhiễu ba vòng. Trở về bổn viện, Ngài dâng hương phát nguyện, kính cẩn phó chúc cho đệ tử những giáo pháp vừa mới được phiên dịch, rồi an nhiên mà hóa, thọ bảy mươi mốt tuổi, được năm mươi mốt hạ lạp. Mồng bảy tháng mười một năm đó, đồ chúng an táng nhục thân của Ngài tại Long Môn ở Nam Y, và lập tháp thờ phụng. Ngài được nhà vua ban hiệu là quốc sư Sắc Thụy. Ðệ tử thọ pháp là Bất Không.

64. Tam tạng pháp sư A Mục Khư Bạt Chiết La (Amonghavajra, dịch là Bất Không Kim Cang).

Ngài vốn thuộc dòng bà la môn ở bắc Thiên Trúc. Thuở nhỏ, Ngài theo người chú sang nước Quang Ðông. Năm mười lăm tuổi, Ngài theo học đạo với ngài Bạt Nhật La Bồ Ðề (Kim Cang Trí). Mới đầu, Ngài học Tất Ðàm Chương và luận Thanh Minh bằng tiếng Phạn. Chỉ trong vài tuần là Ngài triệt thông, khiến ngài Bạt Nhật La Bồ Ðề lấy làm kinh ngạc. Sau này, Ngài thọ giới Bồ Tát, rồi được dẫn nhập vào Kim Cang Giới Ðại Mạn Trà La, đạt nhiều điềm linh ứng, nên ngài Bạt Nhật La Bồ Ðề biết ngài Bất Không sau này sẽ làm hưng thịnh giáo pháp.

Sau khi thọ giới cụ túc, Ngài tinh thông thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ, và biết rành nhiều ngôn ngữ. Ngài thường cùng phiên dịch kinh điển với thầy bổn sư. Trong ba năm liền, ngài Bất Không thỉnh cầu học Tân Du Già Ngũ Bộ Tam Mật Pháp, nhưng ngài Bạt Nhật La Bồ Ðề vẫn chưa chấp thuận. Do đó, ngài Bất Không định trở về Thiên Trúc. Ðêm nọ, ngài Bạt Nhật La Bồ Ðề mộng thấy các tượng Phật và tượng Bồ Tát ở trong các chùa chiền tại kinh thành đều bay về hướng đông. Tỉnh dậy, ngài Bạt Nhật La Bồ Ðề biết ngài Bất Không chân chánh là bậc pháp khí, bèn chấp thuận lời thỉnh cầu khi xưa, rồi truyền cho năm bộ pháp Quán Ðảnh Hộ Ma A Xà Lê cùng kinh Tỳ Lô Giá Na, và quy tắc Tô Tất Ðịa. Sau này, ngài Bạt Nhật La Bồ Ðề sang Lạc Dương, nên ngài Bất Không cũng đi theo làm thị giả. Lúc ngài Bạt Nhật La Bồ Ðề nhập tịch vào niên hiệu Khai Nguyên thứ hai mươi (732), ngài Bất Không bèn lập Ảnh Ðường để truy niệm. Kế đến, ngài Bất Không phụng sắc triều đình sang Ngũ Thiên (Ðông Thiên Trúc, Tây Thiên Trúc, Nam Thiên Trúc, Bắc Thiên Trúc, Trung Thiên Trúc), và nước Sư Tử. Lúc Ngài đến quận Nam Hải, thứ sử Lưu Cự Lân khẩn thỉnh truyền pháp quán đảnh. Tại chùa Pháp Tánh, Ngài độ trăm ngàn vạn dân chúng. Do lòng chí thành của Ngài, nên cảm đến Bồ Tát Văn Thù hiện thân.

Tháng chạp niên hiệu Khai Nguyên thứ hai mươi chín (741), từ Côn Lôn, Ngài lên thuyền rời Nam Hải. Thuyền đến địa phận nước Ha Lăng thì gặp một trận cuồng phong. Các thương nhân đều sợ hãi, nên y theo phong tục của địa phương mà cầu khẩn, nhưng không hiệu quả. Do đó, họ quỳ lạy khất cầu cứu hộ. Ngài bảo:

- Nay Ta có pháp. Các ngươi chớ lo sầu.

Nói xong, tay phải Ngài cầm chày Ngũ Thai Bồ Ðề Tâm, và tay trái cầm kinh Bát Nhã Phật Mẫu, rồi tác pháp tụng kinh một biến. Tức thì gió ngưng biển lặng. Hồi sau, một con cá voi xuất hiện, đầu to như núi. Các thương nhân đều ủy thác cho nghiệp lực. Ngài cũng tác pháp và tụng kinh như lúc trước, cùng bảo chư đệ tử tụng kinh Bà Kiệt Long Vương. Lát sau, tất cả hoạn nạn đều được tiêu trừ. Sau này, thuyền đến nước Sư Tử. Quốc vương bèn sai sứ ra nghinh đón, cùng cho vệ sĩ đi hầu hai bên đường. Vừa thấy Ngài, quốc vương bèn dập đầu đảnh lễ, rồi thỉnh vào hoàng cung, cúng dường trong bảy ngày. Mỗi ngày, quốc vương đổ nước trầm hương đầy vào một cái hộc bằng vàng kim, rồi đích thân tắm gội cho Ngài. Hoàng hậu, thái tử, cung phi, đại thần, quan lại đều cung kính lễ bái Ngài như quốc vương của họ.

Vừa thấy Phổ Hiền A Xà Lê, ngài Bất Không bèn cúng dường vải lụa bằng kim tuyến, và cung thỉnh khai mở kiến lập mười tám pháp đàn Kim Cang Quán Ðảnh Du Già pháp môn cùng Tỳ Lô Giá Na Ðại Bi Thai Tạng. Ngài Bất Không cũng cầu học thêm với ngài Vô Thường về giáo pháp mật tạng, cùng hơn năm trăm bộ kinh luận, Bổn Tam Muội, chư tôn mật ấn, nghi hình sắc tượng đàn pháp, cờ xí, văn nghĩa tánh tướng, v.v...

Ngày nọ, quốc vương mở hội điều phục voi. Dân chúng xem coi đầy chật cả cung thành. Ngài đứng giữa ngã tư đường, miệng tụng thần chú, tay bắt ấn, tâm nhập từ định. Các con voi điên cuồng đang chạy, chợt bị té lăn.

Thứ đến, Ngài du hóa sang Ngũ Thiên. Năm 746, Ngài bèn quay trở về kinh đô Ðông Ðộ. Vào triều, Ngài dâng những phẩm vật của quốc vương Thi La Mê Già Biểu của nước Sư Tử gởi đến như vàng bạc, lưu ly, châu báu, kinh Bát Nhã, v.v... Kế đến, Ngài phụng sắc, vào triều nội làm lễ quán đảnh cho nhà vua. Sau này, Ngài dời sang chùa Tịnh Ảnh. Bấy giờ suốt mùa hạ trời nắng chang chang. Nhà vua bèn ra lịnh cho Ngài cầu mưa:

- Nếu cầu không được thì đừng gặp mặt Trẫm.

Ngài bèn phụng theo chiếu chỉ mà lập đàn Khổng Tước Vương. Chưa đến ba ngày thì mưa đổ xuống khắp nơi, khiến nhà vua rất vui mừng, tự tay đem một rương châu báu và y ca sa màu vàng tím, cùng hai trăm xấp lụa mà đem dâng cúng cho Ngài.

Lần nọ, một ngọn cuồng phong chợt thổi đến. Nhà vua lại triệu thỉnh Ngài làm cho cơn gió đó ngừng. Ngài lấy một bình bằng bạc và một quả táo để tác pháp gia trì. Trong phút chốc gió liền ngưng. Ðột nhiên, một con ngỗng chạy tới, làm đổ bình nước bằng bạc, khiến gió lại càng thổi mạnh bạo hơn lúc trước. Ngài lại gia trì thần chú, khiến gió lại ngừng. Nhà vua thấy vậy, bèn gia tặng Ngài danh hiệu:" Trí Tạng."

Ngài định trở về bổn quốc, nên cỡi ngựa đến quận Nam Hải vào năm 749. Nơi đó, vì nhận được chiếu chỉ, nên Ngài đành ở lại, rồi phải đến Hà Lũng. Vào năm 753, do tiết độ sú Ca Thư Hàn cầu thỉnh, Ngài đến trú tại chùa Khai Nguyên ở Võ Trụ. Tiết độ sứ Bạc Tân Tùng cầu thọ pháp quán đảnh. Sĩ thứ cả ngàn người đều đăng đàn tràng thọ pháp. Ðệ tử Hàm Quang, v.v... cũng thọ năm bộ pháp quán đảnh. Khai phủ Lý Hoàn Tống thọ pháp Kim Cang Giới Ðại Mạn Trà La. Hôm ấy, nơi vùng đất lập đạo tràng chợt có động đất. Ngài bảo:

- Ðây là do sụ thành tâm của tín chúng.

Sau này, Ngài trở về kinh đô, trú tại chùa Ðại Hưng Thiện. Kế đến, vào năm 756, vua loan giá tại Linh Võ Phượng Tường, Ngài cũng đi theo mật trì thần chú. Ðường Túc Tông cũng mật sai sứ giả đến cầu pháp bí mật. Vào niên hiệu Càn Nguyên (758-759), nhà vua thỉnh Ngài vào cung điện, kiến lập đạo tràng Hộ Ma Pháp. Ngài truyền pháp Chuyển Luân Vương Vị Thất Bảo Quán Ðảnh cho nhà vua. Năm 760, nhà vua bị bịnh. Ngài bèn gia trì chân ngôn bạt trừ bảy nạn. Vài ngày sau, bịnh tình lành hẳn, khiến cho nhà vua lại càng khâm phục, tôn sùng. Sau này Ngài dâng biểu xin vào núi ẩn tu. Nhà vua ban sắc cho Ngài vào núi Chung Nam Sơn, trú tại chùa Trí Cự. Nơi đó, ngày đêm Ngài tu tạo công đức, tụng niệm thù chú, nên cảm động Bồ Tát Ðại Lạc hiện thân phóng quang ấn chứng. Ngài tự bảo:

- Chúng sanh chưa được độ xong, mà Ta đã tự an độ rồi.

Ðường Túc Tông nhường ngôi cho Ðường Ðại Tông. Lên ngôi xong, Ðường Ðại Tông lại càng sùng kính Ngài thâm trọng. Ngài vừa phiên dịch xong hai bộ kinh Mật Nghiêm và Nhân Vương, nhà vua bèn viết lời tựa. Ngày phát hành hai bộ kinh này, mây lành hiển hiện, khiến cả triều đình đều chúc mừng Ngài.

Niên hiệu Ðại Lịch thứ ba (768), nơi chùa Ðại Hưng Thiện, Ngài lập đàn tràng tác pháp. Nhà vua cũng dâng rất nhiều lễ vật như tràng phan bảo cái, và cúng dường trai tăng trong hai mươi bảy ngày, cùng ra chiếu chỉ cấm các quan triều dụng quân binh, rồi nhập đàn thọ quán đảnh.

Vào mùa hạ niên hiệu Ðại Lịch thứ năm (770), nhà vua ban chiếu chỉ thỉnh Ngài đến núi Ngũ Ðài làm Phật sự. Ðương thời có sao chổi xuất hiện. Pháp sự vừa xong thì sao chổi cũng biến mất. Mùa thu, từ Ngũ Ðài, Ngài trở về kinh đô. Nhà vua cỡi ngựa trắng đích thân ra cổng thành nghinh đón.

Sau này, Ngài dâng sớ xin dịch kinh điển. Mười vị đại đức danh tăng cũng đén hỗ trợ. Ðến niên hiệu Ðại Lịch thứ sáu (771), tổng cộng Ngài phiên dịch được một trăm hai mươi quyển và bảy mươi bộ kinh. Nhà vua lại ban tặng lễ vật.

Ðương thời, tại kinh đô, suốt hai mùa xuân hạ đều bị nạn hạn hán. Ðường Ðại Tông bèn viết chiếu chỉ gởi cho Ngài, bảo:

- Nếu nội trong ba ngày trời đổ mưa, thì đó chính là pháp lực thần dị của Hòa Thượng cảm nên. Nếu sau ba ngày mà không có mưa, thì Hòa Thượng chẳng có pháp lực gì hết.

Phụng mạng chiếu chỉ, Ngài lập đàn cầu mưa. Ðến ngày thứ hai thì trời đã đổ mưa xuống ào ào. Nhà vua bèn cúng dường y ca sa tử kim, và ban cho chư đệ tử y ca sa thất phó (y bảy điều), cùng thiết lễ cúng dường trai tăng cho một ngàn vị sa môn, để đáp đền công lao của Ngài. Ngài thỉnh cầu nhà vua xây lầu các thờ Bồ Tát Văn Thù. Nhà vua liền chấp thuận, và xuất tiền trong công khố triều đình mà xây. Ngài lại dịch kinh Nghiệt Lộ Trà Vương.

Niên hiệu Ðại Lịch thứ chín (774), từ mùa xuân đến mùa hạ, Ngài tuyên dương diệu pháp, răn nhắc môn đồ. Ngài thường giảng giải kinh Phổ Hiền Nguyện Hạnh Xuất Sanh Vô Biên Pháp Môn, và cũng khuyên đồ chúng nên tụng trì quyển kinh đó.

Ðêm nọ, Ngài bảo đệ tử là Triệu Tuyển đem bút mực đến, rồi nói:

- Nay Ta lược viết về nghi thức niết bàn trà tỳ để làm khuôn phép cho đời sau.

Viết xong, Ngài đưa cho Triệu Tuyển để y theo đó mà chuẩn bị tống táng lúc lâm chung. Triệu Tuyển bèn cúi đầu khẩn thỉnh ba lần:

- Xin Thầy hãy từ bi mà trụ lại thế gian lâu dài. Ngược lại, chúng sanh biết y theo ai mà nương nhờ!

Ngài chỉ mỉm cười mà thôi. Chẳng bao lâu, Ngài nhiễm bịnh, rồi dâng sớ xin từ biệt. Nhà vua liền sai sứ đem thuốc thang đến, và lại ban cho chức Tề Quốc Công, cùng ba ngàn thực ấp. Ngài không nhận, và chẳng vui lòng, bảo:

- Chư thánh chúng xả thân như duỗi cánh tay. Khi trăng tròn Ta sẽ viên tịch. Lúc lâm chung sao còn nghĩ chuyện lợi danh!

Rằm tháng sáu, Ngài lấy nước hương tắm gội, rồi nằm xuống giường, đặt đầu về hướng đông, mặt hướng về phía bắc, nhập định đại thủ ấn mà viên tịch, thọ bảy mươi tuổi, được năm mươi tăng lạp. Ðệ tử nối pháp là Huệ Lãng. Nhà vua bèn bãi triều trong ba ngày, xuất tiền bố thí, và dựng tháp thờ phụng. Trước khi Ngài nhập diệt, chư tăng thường mộng thấy lâu các Bồ Tát Văn Thù bị sụp đổ; chùy Kim Cang bay lên hư không. Hồ nước đằng sau chùa Ðại Hưng Thiện chợt khô cạn. Hoa trong vườn Trúc Lâm Bảo Ðình đều khô héo.

Mồng sáu tháng bảy làm lễ trà tỳ. Nhà vua ban tặng pháp hiệu là Ðại Biện Quảng Chánh Tri Tam Tạng. Trà tỳ xong, thâu lấy cả trăm hột xá lợi. Trong tám mươi hột, đảnh cốt vẫn còn nguyên. Trong đó có một hạt màu sắc nửa ẩn nửa hiện. Nhà vua ban sắc lập tháp thờ xá lợi tại bổn viện.

Suốt một đời hoằng pháp, Ngài Bất Không luôn vì việc lợi sanh ích vật. Pháp môn tổng trì của Ngài triệt chiếu thù thắng, không ai có thể đo lường sự sâu cạn.

Xưa kia, Ðường Huyền Tông rất tôn kính Ngài. Năm nọ, trời hạn hán, nhà vua triệu Ngài đến để cầu mưa. Ngài bảo rằng qua ngày khác thì mới có thể cầu mưa được. Nếu cứ cưỡng mà cầu thì mưa sẽ gây bao điều rắc rối. Nhà vua lại ban sắc thỉnh vị thầy bổn sư của Ngài (tức là ngài Bạt Nhật La Bồ Ðề) thiết đàn tràng cầu mưa. Quả nhiên mưa gió không ngừng. Phố phường đều bị nạn lụt lội, cây cối ngã rất nhiều. Nhà vua lại triệu thỉnh Ngài khiến trời dừng mưa. Ngài bèn đọc thần chú bằng tiếng Phạn. Trong khoảnh khắc trời dừng mưa.

Tại núi Bắc Mang có một con rắn thần. Mỗi tối thường thổi sương mù. Lần nọ, Ngài đi ngang qua đó. Thấy Ngài đến, rắn thần bèn hiện thân, thưa:

- Ðệ tử đang thọ quả báo ác. Không biết Hòa Thượng có thể độ được chăng? Con thường muốn khiến nước sông tràn ngập thành Lạc Dương cho hả dạ!

Ngài bèn thuyết tam quy y năm giới cấm và lý nhân quả cho rắn thần, bảo:

- Vì tâm sân hận mà ngươi phải thọ quả báo như vầy. Nay lại khởi tâm phẩn hận nữa thì Ta không có pháp lực nào để cứu độ. Nếu y theo lời dạy bảo của Ta thì ngươi sẽ xả bỏ được thân rắn.

Sau này, dân làng xung quanh, thấy xác một con thuồng luồng to lớn, mùi hôi thúi xông lên cả mấy dặm.

Lần nọ, trong niên hiệu Thiên Bảo, tướng Tây Phiên là Ðại Thạch Khang hưng binh vây phủ Tây Lương. Vua triệu Ngài vào để cầu cứu. Ngài bèn lập đàn, dâng hương, tụng hai mươi bảy biến Nhân Vương Mật Chú. Nhà vua thấy binh thần khoảng năm trăm vị ở trong cung điện, nên kinh hoàng hỏi han. Ngài đáp:

- Tỳ Sa Môn Thiên Vương lãnh binh thần cứu An Tây. Xin Hoàng Thượng hãy mau thiết lễ cúng dường thức ăn.

Ngày hôm sau, cách thành ba mươi dặm về phía đông bắc, trong sương mù thấy binh thần oai nghi cao lớn, mang thương kích, làm núi động đất chuyển. Phiên binh thấy thế kinh hoàng hoảng sợ. Trong doanh trại của Phiên binh có rất nhiều con chuột màu vàng. Các dây cung nỏ đều bị chúng cắn đứt. Trên lâu các của cổng thành phía bắc, Quang Minh Thiên Vương hiện thân, giương mắt phẫn nộ, khiến Phiên binh đều hoảng sợ bỏ chạy. Tan giặc, nhà vua ban sắc cảm tạ Ngài. Từ đó, nhà vua bèn ra lịnh cho vẽ tượng thiên vương đặt trên lâu các cổng thành ở bốn phía.

Trải qua ba đời vua, Ngài luôn được họ tôn sùng kình trọng nhờ những công lao thù thắng.

65. Tam tạng pháp sư Thú Bà Yết La Tăng Ha (Subhakarasimha, dịch là Thiện Vô Úy).

Ngài vốn là người trung Ấn Ðộ, và là hậu duệ của vua Cam Lộ Phạn Vương, (tức phụ thân của Phật Thích Ca). Pháp danh tiếng Phạn của Ngài là Thú Bà Yết La Tăng Ha; Tàu gọi là Tịnh Sư Tử, và dịch là Thiện Vô Úy. Ngài còn có tên là Du Bà Ca La, dịch là Vô Úy. Người cha vốn là vua nước Trung Thiên Trúc. Võ nghệ đức độ kiêm toàn. Năm mười tuổi Ngài đã thống lĩnh ba quân. Năm mười ba tuổi lên ngôi vua, được quần thần và dân chúng ái mộ. Vì anh em của Ngài ganh ghét, nên khởi binh làm loạn. Sau khi dẹp loạn xong, Ngài bèn nhường ngôi cho người anh để xuất gia tu đạo. Lúc đến biển Nam Hải, Ngài gặp sa môn Thù Thắng Chiêu Ðề, dạy đạo tu hành đắc được tam muội, rồi lấy cát đắp thành tháp có cả vạn cái.

Ngài lại theo thương thuyền chu du các nước. Ngài mật tu thiền định. Miệng thường tụng kinh phóng ánh hào quang bạch sáng. Trong ba ngày, tuy không có gió, nhưng thuyền chạy cả hàng chục ngàn dặm. Ngày nọ, thương thuyền chợt gặp cướp biển. Ngài bèn thầm niệm tụng chân ngôn. Bồ Tát Thất Cu Chi hiện toàn thân tướng, khiến bọn cướp đều bỏ cung giáo mà quy y.

Thiên tánh của Ngài thông minh đảnh ngộ, tài trí siêu quần, thâm giải đạo lý năm thừa giáo cùng tam học; liễu đạt pháp tổng trì và thiền tận đến cội nguồn; tinh tường các nghệ thuật diệu xảo.

Ðầu tiên, Ngài đến tu viện Na Lan Ðà (gọi là Thí Vô Yểm). Tu viện này là hội phủ của chư thánh tăng đời tượng pháp. Trong chùa có trưởng lão Ðạt Ma Cúc Ða, thường mật tu thiền định, thọ mật ấn của đức Như Lai, vốn là đệ tử của Bồ Tát Long Thọ. Diện mạo của trưởng lão Ðạt Ma Cúc Ða trông bề ngoài chỉ như bốn mươi tuổi, nhưng thật tình là tám trăm tuổi. Tam tạng pháp sư Huyền Trang đã có lần gặp qua.

Ngài Thiện Vô Úy bèn dập đầu đảnh lễ, tôn làm thầy bổn sư. Sau này, trưởng lão Ðạt Ma Cúc Ða truyền cho ngài Thiện Vô Úy pháp Tổng Trì Du Già Tam Mật Giáo. Ðương thời, chư long thần bay vần vũ đông đầy trước mắt. Trong khoảnh khắc ngài Thiện Vô Úy đều khế hội thọ hết các mật ấn. Hôm đó, Ngài được thọ phép quán đảnh, và trở thành thầy của trời người, tức được xưng là bậc Tam Tạng Pháp Sư. Nghĩa của Tam Tạng là bên trong chứng nhập giới định huệ; bên ngoài thông suốt ba tạng kinh luật luận, và dùng đà la ni để tổng nhiếp tất cả. Ðà La Ni là bánh xe Bồ Ðề Tốc Tật, và là biển giải thoát kiết tường. Ba đời chư Phật xuất sanh nơi pháp môn này, và hằng tương truyền ngọn đuốc huệ sáng soi. Vì căn tánh của chúng sanh khác nhau, nên ngọn đuốc huệ cũng nhiều vô lượng. Do đó đức Phật mới có trăm ức vi trần số tam muội. Chư Bồ Tát tổng nhiếp nơi các tam muội, mà lập tức thăng lên phẩm vị, nhập vào nơi biển đại giác.

Ðương thời, ngài Thiện Vô Úy đi chiêm ngưỡng lễ bái các thánh tích, mà không màng gian nan nguy hiểm. Tại mỗi nơi thánh tích Ngài đều đến chiêm bái ba lần. Ngài lại vào núi Kê Túc, cạo tóc cho tôn giả Ma Ha Ca Diếp, cùng thọ pháp quán đảnh của Bồ Tát Quán Âm. Ngài thường an cư kiết hạ trên núi Linh Thứu. Mãnh hổ thường đến cầu đạo nơi Ngài. Ngài lại vào sâu trong hang núi, thấy bóng tượng Phật Thích Ca cùng hai vị thị giả, thật như còn sống.

Bấy giờ nước Trung Thiên Trúc bị nạn hạn hán, nên quốc vương thỉnh Ngài cầu mưa. Lúc Ngài lập đàn tràng, đại chúng đều thấy Bồ Tát Quán Âm hiện trong vòm trời sáng, tay cầm bình quân trì mà đổ nước xuống, khiến mưa to ào ạt. Ðại chúng thấy vậy, đều vui mừng, được việc chưa từng có.

Tại Ngũ Thiên, sau khi Phật diệt độ, bọn ngoại đạo đua nhau nổi lên. Chín mươi sáu tà kiến nối nhau tương truyền. Ngài đều tùy theo kiến chấp của họ mà dẹp phá nghi lầm, khiến họ mở tâm tà, xả bến mê, mà theo đường giác ngộ. Mây pháp đại thừa tiểu thừa thấm nhuần. Nước định tam muội vuông tròn làm pháp khí. Ðánh ngã dị học, dựng cờ chánh pháp. Kiến lập đạo tràng tâm vương thù thắng, khiến tâm cuồng loạn của họ ngừng, và tự thân lễ Phật.

Lần nọ, Trưởng lão Ðạt Ma Cúc Ða bảo ngài Thiện Vô Úy:

- Này Thiện Nam Tử! Ngươi có duyên lành với nước Chấn Ðán. Hãy sang bên đó mà giáo hóa chúng sanh.

Nghe lời chỉ dạy của tôn sư, ngài Thiện Vô Úy từ biệt lên đường. Ngày nọ, gặp một con sông ở nước Ca Thấp Di La, mà không có cầu, Ngài lướt trên mặt nước để qua sông. Lần khác, một vị trưởng giả thỉnh Ngài đến nhà thọ trai. Ðồng thời, vị trưởng giả đó cũng thỉnh một vị A La Hán đến thọ trai chung với Ngài. Vừa gặp mặt Ngài, vị A La Hán nói:

- Con là người tu theo tiểu thừa giáo, còn Ðại Ðức đã đăng quả vị Bồ Tát.

Thế nên, vị A La Hán kia nhường tòa ngồi chính cho Ngài. Dùng trai xong, vị A La Hán kia bèn bay lên hư không mà biến mất.

Lúc đến nước Ô Trường, Ngài thường giảng pháp Tỳ Lô trong cung Ðột Quyết; an thân thiền định dưới các gốc cây. Trên đường, Ngài gặp bọn cướp. Bị chúng chém ba nhát đao mà chẳng hề hấn chi. Ðao chặt vào thân Ngài như chạm vào đồng sắt. Trước kia, thấy núi Tuyết Sơn cao chót vót, Ngài không muốn vượt qua. Trưởng lão Ðạt Ma Cúc Ða từ hư không bay đến, bảo:

- Bồ Tát thân đồng với thế gian, mà không xả sanh tử. Ngươi đi đã lâu, vậy thân có bịnh chăng?

Nói xong, trưởng lão Ðạt Ma Cúc Ða bèn bay lên trời mà biến mất. Vì vậy, Ngài tiến bước, mà không còn chút do dự. Trên đường, Ngài đi qua nước Thổ Phiên (Tây Tạng), và cùng thương nhân đồng hành. Ngài lại gặp bọn cướp ra chặn đường, nên bí mật bắt ấn, khiến chúng phải cúi đầu sám hối tạ tội. Ðêm hôm vùa tới biên giới nước Trung Thổ, thần nhân hiện hình, thưa:

- Ðây là biên giới phía đông, chẳng nằm trong phạm vi cai quản của đệ tử, mà chính là đất Ðông Ðộ do Bồ Tát Văn Thù bảo hộ.

Nói xong, thần nhân bèn đảnh lễ, rồi biến mất. Ðó chính là thần Ca Tỳ La, đã từng theo hộ vệ Ngài.

Ngài dùng lạc đà mang kinh đến Tây Châu. Vừa tới một bờ sông thì long thần bèn kéo chân của lạc đà xuống nước. Ngài cũng vào long cung ba ngày liền, mà thuyết pháp giáo hóa, khai ngộ cho loài thủy tộc. Sau đó, Ngài lại dẫn lạc đà trở lên bờ sông, mà kinh điển không bị ướt chút nào.

Xưa kia, Ngài đang đi du hóa tại Bắc Thiên Trúc, mà danh đức đã vang truyền đến Trung Thổ. Niên hiệu Khai Nguyên nguyên niên (713) Ðường Huyền Tông mộng thấy đàm đạo với một vị chân tăng, tướng hảo vô cùng oai nghiêm.

Niên hiệu Khai Nguyên thứ tư (716), năm tám mươi tuổi, Ngài mang kinh điển tiếng Phạn đến Trường An. Thật là phù hợp với giấc mộng lành, nên nhà vua rất vui mừng mà trang nghiêm đạo tràng cho Ngài cư trú, và tôn xưng Ngài làm thầy. Chư vương hầu cũng đồng cúi đầu đảnh lễ. Nhà vua ban sắc cho Ngài an trú tại nam viện ở chùa Ðại Hưng Thiện, rồi thỉnh Ngài qua chùa Tây Minh. Nhà vua tự thân đến vấn an, cực kỳ thi lễ kính trọng. Tại Thiên Cung, nhà vua thỉnh Ngài lên ngồi trên tòa cao, rồi đảnh lễ xưng tôn làm quốc sư. Ngài bèn dạy nhà vua về thừa giáo Như Lai. Từ đó, pháp môn uy nghi cực kỳ hưng thạnh.

Bấy giờ có một thuật sĩ, năng sai khiến quỷ thần, làm bao việc biến hóa. Ông ta muốn vào hoàng cung để so tài pháp thuật. Ngài vẫn ngồi nghiễm nhiên bất động, mà tay chân của thuật sĩ kia không thể cử động nổi, nên đành phải rút lui.

Sang năm, phụng theo chiếu chỉ, Ngài bắt đầu phiên dịch kinh điển tại viện Bồ Ðề, và dâng sớ cung thỉnh chư danh tăng cùng duyệt bản dịch tiếng Tàu. Khởi đầu, Ngài dịch một quyển Hư Không Tạng Cầu Văn Trì Pháp. Sa môn Tất Ðạt chuyển ngữ. Vô Trước ghi chép, rồi đem vào cung nội. Nhà vua xem qua rất là vui mừng và tán thán Ngài.

Xưa kia, sa môn Vô Hành sang Tây Vức và Thiên Trúc học ngôn ngữ những nơi đó, cùng phiên dịch kinh điển, rồi trở về. Chẳng may, Vô Hành thị tịch tại bắc Thiên Trúc. Những bản dịch của Vô Hành được mang về, đặt tại chùa Hoa Nghiêm. Ngài Thiện Vô Úy cùng thiền sư Nhất Hạnh tuyển chọn được vài quyển thuộc pháp môn tổng trì, mà chưa được phiên dịch.

Khai Nguyên thứ mười hai (724), Ngài phụng chiếu đến trú tại chùa Phước Tiên ở Lạc Dương, rồi phiên dịch quyển kinh Tỳ Lô Giá Na. Bộ kinh này, có một trăm ngàn bài tụng. Ngài lại dịch ra bảy quyển kinh Ðại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Thần Thông Biến Gia Trì (hay kinh Ðại Nhật, thuộc hệ Thai Tạng Giới của Mật giáo). Sa môn Bảo Nguyệt chuyển ngữ. Thiền sư Nhất Hạnh ghi chép và hiệu đính. Văn dịch tương xứng, vi diệu thâm thúy; trên phù hợp với ý của Phật, dưới khế hợp với căn duyên của chúng sanh, khiến lợi ích phổ cập khắp nơi. Ngài lại dịch ra ba quyển kinh Tô Bà Hô Ðồng Tử, và ba quyển kinh Tô Tất Ðịa Yết La. Hai quyển kinh này đầy đủ các thần chú chân ngôn Tỳ Nại Da, tức Mật Chú Cấm Giới. Người chưa nhập vào Mạn Trà La, thì không thể tụng trì, cũng giống như người chưa thọ giới cụ túc thì không thể nghe chư tăng tụng giới. Quyển kinh Hư Không Tạng Bồ Tát Năng Mãn Chư Nguyện Tối Thắng Tâm Ðà La Ni Cầu Văn Trì Pháp là một phần nhỏ trong quyển Kim Cang Ðảnh Thành Tựu Nhất Thiết Nghĩa Ðồ.

Tánh tình Ngài thích nơi vắng lặng tịch tĩnh. Bấy giờ Ngài khai mở pháp thiền quán, khuyến khích kẻ sơ học. Ðương thời, thiền sư Nhất Hạnh là vị hiền triết, thâm nhập định huệ, thấu suốt diệu lý âm dương, và được vua quan quy ngưỡng tôn kính. Song, vì vẫn còn có những chỗ nghi ngờ, nên Nhất Hạnh cũng thường đến cầu ngài Thiện Vô Úy khai thị. Tại bổn viện, Ngài thường đúc những ngôi tháp bằng đồng, tinh xảo hơn trời người, để làm khuôn mẫu cho hậu thế. Ðại chúng trong chùa cũng bắt chước Ngài mà đúc tháp. Lần nọ, một ngọn gió lớn thổi đến, khiến lửa phụt cháy lan. Ngài bảo đại chúng rằng chớ có lo sợ. Quả nhiên trong giây lát, tuyết rơi xuống, khiến lửa tắt, và ngay trong ngôi tháp chợt xuất ra một đóa hoa. Ðại chúng đều vui mừng tán thán.

Lần khác, trời hạn hán, nhà vua sai sứ đến thỉnh Ngài cầu mưa. Ngài bảo:

- Nay bị hạn hán là điều đuơng nhiên. Nếu cứ cưỡng ép mà cầu rồng phun mưa thì sẽ bị bão lụt, tự chiêu tổn hoại.

Nhà vua cứ một mực khẩn cầu, nói:

- Dân chúng bịnh khổ vì hạn hán. Có phong lôi (sét đánh), cũng là đủ thích ý rồi.

Ngài từ chối mãi cũng không được, nên bắt buộc phải lập đàn cầu mưa. Lúc quan quân đem tràng phan, tù và ra, Ngài bảo rằng không đủ để cầu mưa. Ngài bèn lấy một bát nước, rồi dùng một con dao nhỏ quậy bên trong, và tụng trăm câu thần chú bằng tiếng Phạn. Trong khoảnh khắc, có một con rồng thân hình màu đỏ, dài cả một ngón tay, bơi lặn dưới đáy bát nước. Ngài lại quậy nước và tụng thần chú. Lát sau, một làn khói trắng từ trong bát nước xông lên, bay cao cao mấy chục thước rồi tan mất. Ngài bảo các vệ sĩ:

- Hãy đi mau. Mưa sẽ rơi!

Các vệ sĩ vừa đi khỏi, rồi xoay đầu nhìn lại, thấy vầng khói trắng chợt bay trở lại vần vũ trên nóc mái giảng đường, rồi lại có một cơn gió thổi đến, cùng tiếng sét nổ vang. Các vệ sĩ vừa trở lại cầu Thiên Tân thì mưa tràn đến chạy theo vó ngựa. Cây cối hai bên vệ đường bị gió thổi ngã rất nhiều. Các vệ sĩ vào triều bẩm tấu, mà y phục dính đầy bùn sình. Nhà vua càng tín phụng Ngài hơn.

Lần nọ, có một con thuồng luồng sống trên một ngọn núi nọ. Ngài đến đó, thấy nó, bèn hô:

- Hãy mau qua thành Lạc Dương!

Nói xong, Ngài tụng thần chú vài trăm biến. Vài ngày sau, con thuồng luồng chết. Ðó là điềm báo loạn An Lộc Sơn. Hôm nọ, Ngài đến thăm luật sư Ðạo Tuyên. Ðạo Tuyên vừa thấy Ngài, bèn sanh tâm khinh lờn. Ðến tối, gián rệp bò đầy vào cửa phòng của Ðạo Tuyên. Ngài Thiện Vô Úy bèn liên tiếp hô:

- Lão bộc luật sư đã giết các Phật tử.

Ðạo Tuyên mới biết Ngài là một vị Bồ Tát hóa thân, nên đắp y ca sa, trịnh trọng lễ bái sám hối.

Niên hiệu Khai Nguyên thứ hai mươi (732), Ngài dâng sớ xin trở về Thiên Trúc, nhưng nhà vua không khứng chịu. Ðến mồng bảy tháng mười, niên hiệu Khai Nguyên thứ hai mươi ba (735), Ngài nhập tịch, thọ chín mươi chín tuổi, được tám mươi tăng lạp. Tăng lữ trong toàn quốc đều đau buồn mến tiếc. Tân Luật Sư đứng ra lo việc an táng. Ba ngày sau, tăng chúng an táng nhục thân của Ngài tại chùa Quảng Hóa ở Long Môn tại núi Tây Sơn. Do sức định huệ, toàn thân của Ngài không hoại. Ngày làm lễ an táng nhục thân của Ngài, trời đất ảm đạm u buồn, núi non đều đổi màu sắc. Ðệ tử nối pháp là thiền sư Bảo Úy, thiền sư Huệ Úy, v.v...

 

66. Ngài Bát Lặt Nhã (Trí Huệ).

Ngài là người nước Ca Tất Thí ở bắc Thiên Trúc, tên tục là Kiều Ðáp Ma Ðề. Thiên tư đảnh ngộ, mới bảy tuổi mà phát tâm bỏ cha mẹ, quy y Tam Bảo. Bấy giờ, Ngài thường y theo lời dạy của chư đại đức mà học một trăm ngàn câu kệ của bốn bộ kinh A Hàm, và ba mươi ngàn bài kệ của kinh A Tỳ Ðạt Ma. Lúc đến tuổi trưởng thành, Ngài theo tôn sư đi qua nước khác để thọ giới cụ túc. Lúc ấy, Ngài tụng thuộc gần bốn mươi ngàn bài kệ của bộ Tát Bà Ða, và hai mươi bảy ngàn bài kệ của bộ Câu Xá. Ngài lại đọc tụng Ðại Bà Sa, cùng thông suốt nghĩa lý. Trong bảy năm, Ngài trú tại đó để chuyên tu học giáo lý tiểu thừa, rồi đến tu viện Na Lan Ðà ở trung Thiên Trúc. Nơi đó, Ngài học kinh luật giáo lý đại thừa như Duy Thức, Du Già, Kim Cang, Bát Nhã, luật tạng, và ngũ minh. Ngài lại y chỉ theo học ba đại luận sư đương thời như Trí Hộ, Tiến Hữu, Trí Hữu. Sau này Ngài đến chiêm lễ rừng Song Lâm, nơi đức Phật nhập niết bàn, và tám tháp lớn thờ xá lợi của Phật. Trong mười tám năm ròng, Ngài thường qua lại chiêm ngưỡng lễ bái các thánh tích.

Nghe tiếng một danh sư tại nam Thiên Trúc, Ngài bèn đến đó để cầu học đạo. Nơi đó có quán đảnh sư là Ðạt Ma Da Xá. Vừa thấy ngài Bát Lặt Nhã, ngài Ðạt Ma Da Xá biết đây là pháp khí, nên dạy kinh Du Già Pháp Nhập Mạn Trà La Mật Hộ Thân Ngũ Bộ Ấn Khế. Trong một năm, Ngài học thuộc ba ngàn năm trăm kệ tụng. Nghe Bồ Tát Văn Thù đang trụ ở nưóc Chi Na, nên Ngài chống tích trượng đi về hướng đông để truyền bá chánh pháp. Thế nên, Ngài theo thuyền sang Ðông Ðộ. Thuyền vừa vào biên cảnh Quảng Châu thì bị gió thổi ngược lại miền đông nước Sư Tử. Ngài lại lên thuyền lớn, chu du khắp các nước nước ở Nam Hải. Vừa vào vùng duyên hải tỉnh Quảng Ðông thì có một cơn giớ lốc thổi đến, khiến thuyền bể người chết, duy chỉ còn một mình Ngài sống sót. Ðến tối canh năm thì lặng gió. Bấy giờ, kinh luận mà Ngài đem theo cũng bị trôi dạt mất. Lúc Ngài lội được lên bờ thì thấy kinh luận nằm rải rác trên bãi biển. Do đó, Ngài bèn lấy cây trúc mà vạch tìm kinh luận dưới cát biển. Ngài tự bảo:

- Chắc là căn tánh của người Chi Na chưa thành thục để tiếp nhận kinh luận giáo lý đại thừa này.

Ngài bèn mang kinh, đi bộ nửa tháng thì đến Quảng Châu. Ðương thời nhằm vào đời vua Ðức Tông.

Niên hiệu Trinh Nguyên thứ tám (792), nhà vua ban sắc lịnh cho Ngài vào kinh thành, khởi sự phiên dịch kinh điển. Bấy giờ, chư danh tăng cũng hội tụ, đồng hành việc phiên dịch. Sa môn Bát Nhã (người nước Kế Tân), tụng kinh văn tiếng Phạn. Các sa môn ở chùa Quang Trạch chuyển ngữ. Sa môn Viên Chiếu ở chùa Tây Minh ghi chép.

Suốt những năm trú nơi đó, Ngài luôn tham dự việc phiên dịch kinh điển. Lời văn lưu loát, khiến nhà vua cũng phải ban sắc viết lời tựa cho những bộ kinh mà Ngài vừa phiên dịch xong.

Sau này, Ngài thị tịch tại Lạc Dương. Phần mộ được chôn tại Tây Võng của Long Môn. Tháp hiện nay vẫn còn tồn tại.

67. Ngài Liên Hoa.

Ngài là người Thiên Trúc. Năm 784, chống tích trượng sang yết kiến Ðường Ðức Tông, xin một cái chuông, để mang trở về Thiên Trúc mà làm Phật sự. Vua ban sắc cho tiết độ sứ Lý Phục ở Quảng Châu đúc chuông đồng. Ðúc xong, nhà vua ban sắc cho người mang sang nam Thiên Trúc để tại chùa Kim Ðôi. Ngài lại mang cái chuông này đến nước Bảo Quân (Ratnasena), và an trí trong tháp Tỳ Lô Giá Na. Sau này, Ngài mang phần cuối của kinh Hoa Nghiêm đến kinh đô. Tam tạng pháp sư Bát Nhã tại chùa Sùng Phước phiên dịch thành bốn mươi quyển.

68. Ngài Mâu Ni Thất Lợi (Munisri, dịch là Tịch Mặc).

Ngài là người bắc Thiên Trúc, xuất gia thọ pháp tại tu viện Na Lan Ðà. Năm 793, Ngài xuất phát từ tu viện Na Lan Ðà, rồi đến Trường An vào năm 800. Sau đó, Ngài được vua ban sắc cho trú tại chùa Từ Ân, và cùng tam tạng pháp sư Bát Nhã dịch mười quyển Thủ Hộ Quốc Chủ Ðà La Ni.

69. Ngài Mãn Nguyệt (Purnasoma).

Ngài là người ở Tây Vực, sang Chấn Ðán, nhận trọng trách phiên dịch kinh điển. Ngài quán thông thấu triệt pháp môn Du Già, cùng có thần lực kỳ dị. Ðời Ðường Văn Tông, niên hiệu Khai Thành (836-840), Ngài mang kinh điển bằng tiếng Phạn đến Trung Thổ, và cùng với sa môn Kim Cang Tất Ðịa, v.v... dịch bốn quyển Ðà La Ni Tập và một quyển Thú Ðà Thiên Tử Thuyết Tôn Thắng kinh. Bấy giờ ngài Tri Huyền, tức quốc sư Ngộ Ðạt, tôn ngài Mãn Nguyệt làm thầy.

Ngoài ra, từ thế kỷ thứ nhất đến thế kỷ thứ mười, có rất nhiều nhà dịch giả từ Thiên Trúc, Ðại Nhục Chi, Tây Vực, v.v... sang Trường An, Lạc Dương, Kiến Nghiệp, v.v... phiên dịch kinh điển như sau:

Ngài An Pháp Khâm, người nước An Tức, tại Lạc Dương từ năm 281 đến năm 306, dịch kinh Ðạo Thần Túc Vô Cực Biến Hóa, kinh Văn Thù Sư Lợi Hiện Bảo Tạng, kinh A Xà Thế Vương, truyện A Dục Vương.

Ngài Chi Pháp Ðộ, người nước Ðại Nhục Chi, dịch kinh Thệ Ðồng Tử, v.v...tại Lạc Dương vào năm 301.

Ngài Nhã La Nghiêm, người Thiên Trúc, dịch kinh tại Lạc Dương vào khoảng năm 316.

Ngài Chi Ðạo Căn, người nước Ðại Nhục Chi, đến Kiến Nghiệp vào năm 335, dịch kinh Phương Ðẳng, Pháp Hoa, v.v...

Ngài Trúc Ðàm Vô Lan (Dharmaranya, dịch là Pháp Chánh), người nước Thiên Trúc, dịch kinh tại Kiến Nghiệp từ năm 381 đén năm 395.

Ngài Chi Thi Lôn, người nước Ðại Nhục Chi, dịch hai quyển kinh Như Huyễn Tam Muội, Thượng Kim Quang Thủ, và hai quyển kinh Thủ Lăng Nghiêm vào đời Tiền Lương, năm 373.

Ngài Cưu Ma La Phật Ðề (Kumarabodhi, dịch là Ðồng Giác), là người nước Thiên Trúc, dịch kinh tại Trường An từ năm 369 đến năm 371. Ngài Ðàm Ma (Dharmapriya, dịch là Pháp Ái), dịch kinh tại Trường An vào năm 382.

Ngài Ca Lưu Ðà Gia (Kalodaka, dịch là Thời Thủy), là người nước Thiên Trúc, dịch kinh tại Kiến Nghiệp vào năm 392.

Ngài Khương Ðạo Hòa, người nước Khương Cư, dịch kinh tại Kiến Nghiệp vào năm 396.

Ngài Tăng Già Ðà (Sanghata, dịch là Nhiêu Thiện) là người Tây Vức, dịch kinh tại Bắc Kinh từ năm 402 đến 412.

Trúc Nan Ðề (Nandi, dịch là Vân Hỷ) cư sĩ người Thiên Trúc, dịch kinh tại Kiến Nghiệp vào năm 419.

Ngài Chi Ða Mật (Gitamita, dịch là Ca Hữu) người Tây Vực, dịch kinh tại Kiến Nghiệp vào năm 420.

Ngài Công Ðức Trực (Gunaila) là người ở Tây Vực, đến Kinh Châu dịch kinh vào năm 462.

Ngài Phật Ðà Bạt Di (Sanghavarman) người nước Sư Tử, dịch kinh tại Kiến Nghiệp vào năm 478.

Ngài Vật Ðề Ðề Sạn Ngư (dịch là Liên Hoa Thanh Tịnh) người nước Quy Từ. Ngộ Không từ Thiên Trúc đi ngang qua nước Quy Từ, gặp ngài Vật Ðề Ðề Sạn tại chùa Liên Hoa, nên cung thỉnh dịch kinh Thập Lực.

Ngài Bát Nhã là người nước Kế Tân. Năm 795 dịch ra mười quyển thuộc phần cuối của kinh Hoa Nghiêm là Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện, do Ngài mang từ nước Ô Trà sang Ðông Ðộ.

Ngài Vô Năng Thắng là người A Chất Ðạt Tản ở Thiên Trúc, cũng phiên dịch kinh điển vào cuối đời Ðường.

Y cứ theo quyển Khai Nguyên Thích Giáo Lục Tải, thì từ đời Hậu Hán đến đời Ðường niên hiệu Khai Nguyên, các nhà dịch giả, gồm chư tăng lẫn cư sĩ, có khoảng 171 vị, dịch được 2278 bộ và 7046 quyển kinh. Những kinh điển này bao gồm có chân ngụy, còn mất. Theo quyển Khai Nguyên Thích Giáo Lục Tải thì những bản kinh chân thật, hiện còn tồn tại là 968 bộ và 4507 quyển. Vào đời Tống dịch thêm được hơn năm trăm quyển. Tổng cộng khoảng năm ngàn quyển kinh luật luận. Từ năm 67 đến năm 789 là thời gian mà đại đa số các kinh điển đã được phiên dịch. Trước và sau thời gian đó, đều là những phần phụ.

_____________________________________________________________

Tài liệu phiên dịch và trích dẫn:

1. Ðại Tạng Kinh quyển thứ 50, bộ sử truyện thứ 2: Cao Tăng Truyện, Tích Cao Tăng Truyện, Tống Cao Tăng Truyện.

2. Trung Quốc Phật Giáo Thông Sử (quyển 1, 2, 3, 4), Liêm Ðiền Mậu Hùng trước tác. Quan Thế Khiêm dịch.

3. Trung Quốc Phật Giáo Phát Triển Sử (quyển 1, 2, 3), Trung Thôn Nguyên Ðẳng trước tác. Dư Vạn Cư dịch.

4. Trung-Ấn Phật Giáo Giao Thông Sử, Thích Ðông Sơ trước tác.

5. Ấn Ðộ Thông Sử, Chu Dương Quang trước tác.

6. Phật Thiền Cao Tăng, Lâm Ðồng Chiếu biên soạn.

7. Trung Quốc Phật Giáo Sử, Tưởng Duy Kiều.

8. Kenneth Ch'en, Buddhism in China, A History Survey.

9. Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam, Thích Mật Thể.

10. Hai Ngàn Năm Việt Nam và Phật Giáo, Lý Khôi Việt.

 


chuaphogiac


Các tin đã đưa ngày :