Người tín ngưỡng Phật giáo, hoặc là người nghi ngờ bình luận Phật giáo, đối với sự hiểu lầm về Phật giáo, trước hết phải nên gạt bỏ đi, rồi mới có thể nhận thức Phật giáo một cách chân chánh
CẨM NANG TU PHƯỚC HUỆ
XIN ĐỪNG HIỂU LẦM PHẬT GIÁO
Nguyên tác: HT Ấn Thuận
Dịch giả: Thích Minh Kiết
Mục lục:
I. Sự hiểu lầm khởi từ giáo nghĩa của Phật giáo
1. Đời người là khổ
2. Xuất thế
3. Tất cả đều là “không”
II. Sự hiểu lầm qua chế độ của Phật giáo
1. Xuất gia
2. Ăn chay
III. Sự hiểu lầm qua nghi thức của Phật giáo
1. Lễ Phật
2. Sám hối
3. Tụng kinh
4. Đốt vàng mã
5. Xin xăm, bói toán.
IV. Sự hiểu lầm xuất phát từ hiện trạng của Phật giáo.
Lời nói đầu:
Phật giáo truyền vào Trung Quốc đã có lịch sử hơn một ngàn chín trăm năm, cho nên giữa Phật giáo và Trung Quốc có mối quan hệ vô cùng thân thiết. Văn hóa, tập tục của Trung Quốc cũng bị ảnh hưởng bởi Phật giáo và ngược lại, Phật giáo cũng bị ảnh hưởng bởi văn hóa Trung Quốc, Phật giáo đã trở thành đạo Phật của bản thân chúng ta.
Nhưng Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ, có một số đặc sắc văn hóa của Ấn Độ mà người Trung Quốc không dễ gì hiểu được; chịu ảnh hưởng bởi tập tục của Trung Quốc, có một số điều không hợp với bổn ý của Phật giáo, cho nên Phật giáo tại Trung Quốc, những người tin hoặc không tin Phật giáo, mỗi bên đều có một số hiểu lầm về Phật giáo, không rõ bổn ý của Phật giáo, nên sanh ra kiến giải sai lầm, do đó người tin Phật giáo không có tín ngưỡng chánh xác về Phật giáo; còn người phê bình Phật giáo cũng sẽ không phê bình đến bản thân Phật giáo.
Theo tôi thấy, người tín ngưỡng Phật giáo, hoặc là người nghi ngờ bình luận Phật giáo, đối với sự hiểu lầm về Phật giáo, trước hết phải nên gạt bỏ đi, rồi mới có thể nhận thức Phật giáo một cách chân chánh. Giờ đây, tôi xin nêu ra mấy điểm trọng yếu với mong mỏi mọi người thông qua đây mà có được kiến giải chánh xác về Phật giáo.
I. Hiểu lầm về mặt giáo nghĩa của Phật giáo:
Đạo lý của Phật giáo rất sâu, có người không rõ được thâm nghĩa mà chỉ hiểu trên văn tự bề ngoài. Họ tùy tiện nghe được mấy danh từ thì vội giảng giải là thế này thế nọ, kết quả là không hợp với bổn ý Phật giáo. Phổ biến nhất chẳng hạn như: các danh từ “đời người là khổ” “đi xuất gia”, “tất cả đều là không” v.v…Những câu này tất nhiên là do Đức Phật nói, mà nó lại còn là lý luận quan trọng của Phật giáo nữa, nhưng người bình thường, ít ai có thể hiểu rõ nó một cách chánh xác. Giờ đây tôi xin nói rõ:
1. Đời người là khổ:
1.1 Từ vô thường biến đổi mà nói “đời người là khổ”
Đức Phật chỉ bảo cho chúng ta biết kiếp người này là khổ. Nếu người không hiểu nghĩa thật sự trong đó thì sẽ sanh khởi quan niệm sai lầm, cảm thấy cuộc đời của mình đây, không có ý nghĩa gì cả, do vậy mà dẫn đến bi quan, tiêu cực, thiếu sức nổ lực hướng thượng của một con người, đây là điều bị hiểu lầm nhất; ở xã hội bên ngoài, người ta hay lấy danh từ tiêu cực bi quan này để phê bình Phật giáo; mà tín ngưỡng Phật giáo cũng rơi vào hiểu lầm về bi quan tiêu cực.
Thật ra câu “đời người là khổ” đây, tuyệt không phải có ý là như vậy. Phàm là một cảnh giới, khi chúng ta tiếp xúc lấy, sanh ra một loại cảm thọ không hợp với ý muốn của mình, dẫn đến đau khổ buồn lo; nếu lấy cái ý này cho đó là khổ thì không thể nói đời người đều là khổ. Tại sao? Vì cuộc đời này cũng có rất nhiều thứ vui thích.
Khi chúng ta nghe những lời nói không êm tai thì tất nhiên là mình không thích rồi, nhưng khi nghe tiếng du dương, không phải là mình khởi tâm ưa thích đó sao? Thân thì mang bệnh, gia cảnh thì khốn khổ, còn người thân thì biệt ly, cái này đương nhiên là đau khổ rồi, nhưng còn người khỏe mạnh, kinh tế giàu có, gia đình đoàn viên, không phải là hạnh phúc lắm hay sao? Bất luận là việc gì đi nữa thì khổ vui cũng đều có tính tương đối; nếu gặp phải những chuyện không như ý, mà cho rằng đời người là khổ, như vậy không phải là phiến diện hay sao?
Thế thì, Đức Phật nói đời người là khổ, vậy cái khổ này có nghĩa là gì? Trong kinh ghi: “vì là vô thường cho nên khổ” Tất cả đều là vô thường, đều sẽ đổi thay. Đức Phật lấy cái ý vô thường đổi thay để nói đời người là khổ. Thí như cơ thể con người ta, không phải cứ là khỏe mãi, rồi nó cũng sẽ dần dần già yếu, bệnh chết; dù có tiền cũng không thể bảo đảm sức khỏe mạng sống, cũng có lúc rồi đến đường cùng; địa vị thế lực cũng không giữ được lâu, sau cùng rồi cũng sẽ mất hết.
Nhìn từ phương diện hoàn cảnh đổi thay bất định, tuy chúng ta thấy có vui vẻ đó, nhưng không có dài lâu, không có triệt để, ngay khi thay đổi thì khổ đau đã đến rồi. Cho nên, Đức Phật nói đời người là khổ có ý là nói cái khổ đó không hoàn mỹ, không dài lâu và không có triệt để.
1.2 Biết được nhân khổ, lại thêm tiêu trừ nó mới có thể được an lạc trọn vẹn.
Người học Phật, nếu không hiểu rõ chân nghĩa, cho rằng đời người đã không viên mãn triệt để, liền dẫn khởi thái độ tiêu cực bi quan. Người thật sự hiểu được Phật pháp thì có cách nhìn hoàn toàn khác. Nên biết câu Phật nói, đời người là khổ có ý là muốn chúng ta nhận biết là kiếp nhân sanh hiện tại của chúng ta đây là không có triệt để, không có vĩnh cữu, sau khi biết như vậy rồi, mình mới có thể tạo nên một nhân sanh viên mãn vĩnh cữu. Cũng giống như người bệnh, trước tiên cần phải biết mình có bệnh, rồi mới chịu mời bác sĩ chẩn trị, sau đó mới hết bệnh, cơ thể sẽ hồi phục khỏe mạnh lại vậy.
Tại sao đời người không triệt để, không vĩnh cữu mà lại có khổ đau? Chắc chắn là có cái nguyên nhân tồn tại của khổ đau, biết được nguyên nhân của khổ rồi thì chúng ta sẽ cố gắng tiêu trừ cái nhân khổ, rồi sau đó mới có thể có được sự an lạc viên mãn, triệt để. Cho nên đức Phật không phải chỉ đơn thuần nói đời người là khổ mà còn nói cái nguyên nhân của khổ đó, dứt trừ cái nhân khổ đó đi thì sẽ được an vui trọn vẹn. Cho nên, người học Phật phải chiếu theo phương pháp mà Đức Phật đã dạy để tu học, thay đổi cái kiếp người không viên mãn, không triệt để này, trở thành một kiếp người viên mãn trọn vẹn. Cảnh giới này, Phật pháp gọi là “thường, lạc, ngã, tịnh”.
Thường là vĩnh cữu, lạc là an lạc, ngã là tự do tự tại, tịnh là thuần khiết thanh tịnh. Bốn chữ này hợp lại chính là an lạc vĩnh cữu, tự do vĩnh cữu, thuần khiết vĩnh cữu. Mục tiêu lớn nhất của Phật giáo không phải chỉ đơn thuần là nói cái khổ của kiếp người, mà cái chính là làm sao để có thể thay đổi cái kiếp người khổ đau này (Phật pháp gọi đây là chuyển y), tạo nên một kiếp người, an lạc vĩnh cữu, tự do, tự tại, thuần khiết thanh tịnh, chỉ ra nguyên nhân đau khổ của chúng ta là ở chỗ nào, rồi làm thế nào, nổ lực tu hành để hướng đến mục tiêu này. Cảnh giới thường, lạc, ngã, tịnh tức là cảnh giới lý tưởng tuyệt đối, điều mong mỏi nhất là mỗi con người chúng ta ai nấy đều có thể đạt đến. Như vậy làm sao có thể cho là Phật giáo tiêu cực, bi quan đây!
Cho nên người học Phật, không nhất định là ai nấy cũng phải đạt cho đến cảnh giới đỉnh điểm này, nhưng nếu biết được cái lý này thì quả là lợi ích vô cùng. Như người bình thường, khi ở trong cảnh khổ còn biết nổ lực làm việc thiện, nhưng khi đã giàu có thì lại quên hết mọi điều thiện, chỉ biến hưởng phước cho bản thân, hồ đồ đi theo con đường sai.
2. Xuất thế gian
2.1 Tại sao gọi là thế gian?
Đức Phật thuyết pháp có thế gian và xuất thế gian, nhưng rất nhiều người hiểu lầm cho rằng thế gian chính là thế giới giống như là chúng ta đang sống đây, còn xuất thế gian nghĩa là đi đến một phương trời nào đó khác. Hiểu như vậy là sai. Chúng ta sống ở thế giới này, xuất gia cũng vẫn là ở thế giới này. Thành A-la-hán, Bồ-tát, Phật cũng là bậc thánh xuất thế gian, nhưng lại ở thế giới này cứu độ chúng ta. Qua đó chúng ta có thể thấy, ý nghĩa của xuất thế gian không phải là đi đến một nơi nào đó khác.
Vậy thì, cái mà Phật giáo gọi là thế gian và xuất thế gian, ý nghĩa như thế nào? Y theo cách nói xưa nay của người Trung Quốc, ý nghĩa của thế có tánh chất thời gian, chẳng hạng như ba mươi năm là một thế; tây lịch cũng có cái ý này, gọi một trăm năm là một thế kỷ, cho nên chữ thế có ý nghĩa tánh chất thời gian, từ quá khứ cho đến hiện tại, trong khoảng thời gian này gọi là thế gian. Phật pháp cũng như vậy, thứ mà có thể biến đổi thì gọi là thế. Trong khoảng thời gian, từ quá khứ cho đến hiện tại, từ hiện tại cho đến vị lai; từ có cho đến hoàn không; từ tốt đẹp cho đến hư nát, đều luôn ở trong trạng thái đổi thay, tất cả những đổi thay này đều gọi là thế gian.
Còn nữa, thế có nghĩa là che đậy. Người bình thường không rõ nhân quả của ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai, không biết từ đâu mình đến đây, phải làm người như thế nào, chết rồi phải đi về đâu, không biết ý nghĩa của kiếp người, bổn tánh của vũ trụ, mịt mờ ngay trong nhân quả của ba đời này, đây gọi là thế gian.
2.2 Thế nào gọi là xuất thế?
Tại sao gọi là xuất thế? Xuất có nghĩa là vượt qua, thắng hơn. Biết tu hành Phật pháp, có trí tuệ, thông đạt chân lý nhân sanh và vũ trụ, trong lòng thanh tịnh không có phiền não, thể nghiệm chân lý vĩnh hằng, đó gọi là xuất thế.
Các Đức Phật, Bồ-tát là ở ngay nơi thế giới này, nhưng các Ngài đã dùng trí tuệ vô thượng để thông đạt chân lý, trong lòng thanh tịnh, không giống như người bình thường.
Cho nên danh từ xuất thế gian này, là muốn chúng ta tu học Phật pháp, tiến thêm một bước có thể làm người bậc thượng, từ phàm phu tiến đến thánh nhân, không phải là bảo chúng ta đi đến một thế giới nào khác. Người không hiểu rõ ý nghĩa của Phật pháp xuất thế, hiểu lầm cho Phật giáo là trốn tránh hiện thực, dẫn đến phê bình không đúng.
3. Tất cả đều là “không”
3.1 Nghĩa thật sự của “không” là: nhân duyên hòa hợp, không có thật thể bất biến.
Đức Phật nói tất cả đều là “không”, có một số người hiểu lầm cho rằng như vầy cũng là “không”, như thế cũng là “không”, cái gì cũng đều “không”, cái gì cũng đều không có, ngang dọc là không có, không có ý nghĩa, vì thế mới có chuyện, việc xấu không làm mà việc tốt cũng không làm, nhìn về một điểm một cách hồ đồ, cho rằng có sống là được rồi.
Thật ra, ý nghĩa “không” trong Phật pháp có mang triết lý tối cao sâu xa, chư Phật, Bồ-tát là những vị đã ngộ được chân lý của cái “không” này. “Không” đây không phải là không có cái gì cả mà trái lại thứ gì cũng có, thế giới là thế giới, nhân sanh là nhân sanh, khổ là khổ, vui là vui, tất cả đều là hiện thành.
Trong Phật pháp, nói rõ là có tà chánh, có thiện ác, có nhân quả; phải bỏ tà quy chánh, lìa ác hướng thiện, làm thiện được quả thiện, tu hành thành Phật. vậy nếu nói thứ gì cũng đều không có vậy thì chúng ta cần gì phải học Phật? còn nếu đã nói có nhân quả, thiện ác, phàm phu thánh nhân thì tại sao Đức Phật nói tất cả đều là “không” vậy “không” này là thế nào?
Nhân duyên hòa hợp mà thành, không có cái thể thường hằng thật tại, gọi đó là “không”. Tà chánh, thiện ác, nhân sanh, tất cả những thứ này đều là thứ thật tại bất biến từ một mà thành, đều là những thứ dựa vào mối quan hệ nhân duyên mới có. Do vì từ nhân duyên sanh ra cho nên theo sự chuyển hóa của nhân duyên mà chuyển hóa, không có thật thể cho nên gọi là “không”.
Xin nêu một sự thật để luận chứng: thí như có người đứng trước tấm gương thì sẽ thấy bóng trong gương. Làm thế nào để có cái bóng đó? Có gương, có người, còn phải nhờ vào ánh mặt trời, ánh đèn mới có thể nhìn thấy bóng, thiếu một thứ thì không thể thành, cho nên ảnh bóng là do nhiều yếu tố mà sanh, không phải chỉ có một vật thể thật tại; tuy không phải là thật thể, nhưng ảnh bóng được nhìn thấy rõ ràng chẳng phải là không có. Tất cả đều là “không” chính là nương nơi ý nghĩa nhân duyên sanh ra này mà nói.
3.2 Đức Phật nói tất cả đều là “không”, đồng thời cũng nói có thiện ác, có nhân quả
Cho nên Đức Phật nói tất cả đều là “không”, đồng thời cũng ngay đó nói tất cả nhân duyên đều có; người lãnh hội, không phải chỉ thể ngộ tất cả đều là “không” mà còn phải biết có nhân có quả, có thiện có ác. Người học Phật phải bắt đầu từ quá trình học dứt ác hành thiện, chuyển mê khởi ngộ mà chứng đắc tánh “không”, tức “không” tức có, nhị đế viên dung. Người thông thường cho rằng Phật pháp nói đến “không”, nghĩa là không có cái gì cả, là tiêu cực, là bi quan. Những suy nghĩ này, đều là do nơi hiểu lầm không rõ Phật pháp mà có, phải sửa chỉnh lại một cách triệt để mới được.
II. Do nơi chế độ Phật giáo mà sanh ra sự hiểu lầm.
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ truyền sang, về phương diện chế độ, có một ít khác biệt với địa phương xưa của chúng ta (Trung Quốc), chẳng hạn như xuất gia và ăn chay, người không hiểu rõ, không quen, đối với vấn đề này có sự hiểu lầm rất là nhiều.
1. Xuất gia:
1.1 Học Phật không nhất định phải xuất gia.
Xuất gia là chế độ của Phật giáo Ấn Độ, còn đối với xã hội Trung Quốc, đặt biệt là nhà Nho có sự hiểu lầm rất lớn về điều này. Ở trong nước chúng ta thường nghe câu: Ai nấy đều học Phật, vậy thì trên đời này không còn ai nữa rồi. Tại sao? Vì ai nấy đều xuất gia hết. Không có chồng vợ con cái thì còn thành gì là xã hội nữa?
Đây là sự hiểu lầm nghiêm trọng, tôi thường thí dụ nói: như các vị thầy giáo dạy học trò, lẽ nào là dạy cho người ta làm giáo viên, để rồi trở thành thế giới giáo viên hết hay sao?Về điểm này, tại Phi-đảo thì không có sự hiểu lầm lớn, vì đâu đâu cũng thấy các Linh mục, nữ tu, họ cũng là người xuất gia, nhưng đây chỉ là bộ phận nhỏ trong giáo đồ Thiên Chúa chớ chẳng phải người nào tin Thiên Chúa giáo thì đều làm Linh mục, nữ tu.
Người học Phật, có đệ tử xuất gia, có đệ tử tại gia. Xuất gia có thể học Phật, tại gia cũng có thể học Phật. Xuất gia có thể tu hành giải thoát sanh tử thì tại gia cũng có thể tu hành giải thoát sanh tử giống như vậy, đồng thời không phải người Phật tử nào cũng nhất định phải xuất gia cho nên quyết chắc sẽ không có chuyện mọi người học Phật mà hủy diệt xã hội loài người.
1.2 Phát tâm lớn, vì chuyên tâm nhất ý hoằng dương Phật pháp mà xuất gia
Thế nhưng người xuất gia và tại gia đều có thể tu hành giải thoát sanh tử, vậy tại sao còn phải xuất gia để làm gì? Vì muốn hoằng dương Phật giáo, thúc đẩy Phật giáo, nên cần phải có một số ít người chủ trì Phật giáo. Người chủ trì tốt nhất là người xuất gia, vừa không có gánh nặng gia đình lại vừa không có làm công việc gì khác ngoài tu học nên có thể chuyên tâm nhất hướng tu hành, chuyên tâm nhất hướng hoằng dương Phật pháp. Phật giáo muốn tồn tại trên thế giới này thì nhất định cần phải có những vị trụ trì như trên để hoằng truyền, cho nên từ xưa đã có chế độ xuất gia này.
Công đức xuất gia có lớn không? Đương nhiên là lớn rồi. Nhưng người không có khả năng gia thì đừng có miễn cưỡng. Nếu miễn cưỡng xuất gia mà không thể hành đúng theo pháp thì còn không bằng tại gia. Càng leo cao thì té càng nặng; công đức xuất gia rất lớn, nhưng một khi sơ ý, nếu bị đọa lạc sẽ càng nguy hiểm hơn. Phải nên phát tâm chân thật tha thiết, siêng tu chịu khổ, vì Phật giáo hy sanh bản thân, nổ lực hoằng dương Phật pháp, có như vậy mới không hổ thẹn thân xuất gia.
Người xuất gia là phần tử nòng cốt trong Phật giáo, là chủ thể thúc đẩy Phật giáo phát triển. Người xuất gia không lập gia đình, tôn giáo phương tây cũng có chế độ này. Có rất nhiều nhà khoa học, triết học, giữ chủ nghĩa độc thân, không bị lụy vì những chuyện gia đình, vụn vặt mà chuyên tâm nhất hướng vì Phật pháp. Cho nên xuất gia là việc đại trượng phu, phải đặt biệt chịu siêng, chịu khổ. Nếu tùy tiện xuất gia, xuất gia mà không vì việc xuất gia thì không phải chỉ không có lợi ích mà trái lại còn làm trở ngại cho Phật giáo.
Có người vừa mới học đạo, thì liền muốn xuất gia ngay, tợ hồ học Phật thì không xuất gia là không được, như thế không chỉ bản thân hiểu sai mà còn làm cho người khác sợ hãi không dám đến học Phật nữa. Cách suy nghĩ này – học Phật thì phải xuất gia, là không nên! Phải nên nhận thức, việc xuất gia không phải là dễ, trước hết phải làm cho được một người cư sĩ tại gia thiện lương, vì pháp tu học, tự lợi lợi tha. Như thật sự có thể phát tâm lớn, tu hạnh xuất gia, hiến thân vì Phật giáo, rồi kế đến mới đi xuất gia. Có như vậy, bản thân mới ổn đáng mà còn không gây ảnh hưởng xấu đối với xã hội
1.3 Hai sai lầm lớn đối với người xuất gia
1.3.1 Người xuất gia tinh tấn tu hành cũng cần phải nói pháp cho tín chúng nghe, chớ chẳng phải thanh nhàn hưởng phước.
Liên quan đến vấn đề xuất gia, tôi xin phụ nói thêm hai điểm:
Có người nhìn thấy chùa Phật rộng lớn trang nghiêm, thanh tịnh tao nhã, do đó hâm mộ người xuất gia, cho rằng người xuất gia ở trong đó, có thí chủ đến cúng dường, không cần phải lao động, ngồi không hưởng phước, cũng giống như kiểu “mặt trời lên ba trượng mà vẫn còn chưa dậy” hay “không bằng Tăng gia nửa ngày nhàn” được lưu truyền, chính là cái nói sai lầm này.
Họ đâu biết rằng, người xuất gia có việc của người xuất gia, phải dũng mãnh tinh tấn. Bản thân khi tu hành phải “đầu hôm cuối hôm siêng tinh tu Phật đạo”; về việc thuyết pháp cho tín đồ, phải du hóa bốn phương, đi ra tuyên dương chân lý. Sống đời thanh bần chịu khổ, vì chúng sanh, vì Phật giáo mà nổ lực, tự lợi lợi tha rất là khó được, vì thế nên gọi là Tăng bảo, đâu phải là không làm cái gì, ngồi không hưởng thụ, đợi thí chủ đến cúng dường đâu? Việc này đại khái là hàng xuất gia nhiều, nhưng người có thể tận trách nhiệm bổn phận của người xuất gia thì ít, cho nên xã hội mới có sự hiểu lầm này!
1.3.2 Người xuất gia là người làm công tác giáo dục mang ý nghĩa rộng mà cao thượng, chớ chẳng phải là người tiêu phí ăn bám xã hội.
Người không hiểu Phật pháp mà nói rằng người xuất gia thanh nhàn, hoặc là nói người xuất gia tiêu phí, sống bám. Nói như vậy là không đúng. Người chân chánh xuất gia là không phải vậy, phải không thanh nhàn mà là bận rộn, không phải là tiêu hao mà là có thể đền ân thí chủ.
2. Ăn Chay:
2.1 Học Phật không phải là chỉ học ăn chay mà còn phải trước hết nghe nhiều chánh pháp, tịnh hóa thân tâm.
Tín đồ Phật giáo Trung Quốc của chúng ta đây đặt biệt rất coi trọng ăn chay, cho nên người Phật tử, ai nấy đều cho rằng, học Phật là phải ăn chay, còn ai mà không thể ăn chay được thì hiểu lầm cho là mình vẫn chưa thể học Phật. Hãy nhìn các nước như Nhật Bản, Tích Lan, Miến Điện, Cam-pu-chia, hoặc là tín đồ Phật giáo Tây Tạng, Mông Cổ, đừng nói chi là người tại gia mà ngay cả người xuất gia cũng ăn mặn, vậy bạn có thể nói là họ không phải là người học Phật, không phải là tín đồ Phật giáo không?
Đừng nên hiểu lầm cho rằng học Phật là phải ăn chay, ai không ăn chay được thì không thể học Phật; việc học Phật và ăn chay không phải là hoàn toàn nhất trí. Thông thường, người ta nhìn thấy có một số người học Phật, không có học được thứ gì, chỉ có học cách ăn chay. Cha mẹ anh chị em trong gia đình cảm thấy không thích, cho rằng ăn chay quá phiền phức; thật ra người học Phật, phải nên là như vầy: sau khi quy y rồi, trước tiên phải nên hiểu rõ đạo lý trong Phật giáo, rồi ngay trong gia đình, xã hội, y chiếu theo lời Phật dạy mà làm, phải làm sao cho đức hạnh bản thân được tốt, trong lòng thanh tịnh.
Chúng ta phải làm sao để cho những người trong gia đình cảm thấy, trước khi mình quy y Tam bảo, mình tham lam nhiều, sân hận nặng; thiếu cả tinh thần trách nhiệm và tâm từ bi, sau khi chúng ta quy y Tam bảo, tất cả đều thay đổi, bớt tham, giảm sân, biết yêu thương người, làm việc càng có trách nhiệm hơn, khiến cho mọi người cảm thấy việc học Phật, có điểm lợi ích cho gia đình và xã hội, lúc bấy giờ bạn có muốn ăn chay, chẳng những gia đình không phản đối mà trái lại còn đồng tình ủng hộ, dần dần bắt chước theo bạn. Còn hễ học Phật mà chỉ học ăn chay, không học thứ gì khác thì nhất định sẽ sanh chướng ngại, dẫn đến bị người chê bai.
2.2 Vì giảm bớt nghiệp sát, trưởng dưỡng tâm từ bi mà ăn chay
Tuy người học Phật không nhất định phải ăn chay, nhưng ăn chay quả thật là đức hạnh tốt trong Phật giáo, rất đáng được nêu cao. Phật giáo nói ăn chay có thể trưởng dưỡng tâm từ bi, không nỡ sát hại mạng chúng sanh, không nỡ ăn thịt uống máu động vật, không chỉ giảm bớt nghiệp sát mà tâm đồng cảm với khổ đau của nhân loại cũng sẽ tăng trưởng.
Phật giáo Đại thừa đặt biệt đề xướng ăn chay, cho rằng ăn chay có công đức rất lớn đối với việc trưởng dưỡng tâm từ bi, cho nên ăn chay mà không thể trưởng dưỡng tâm từ bi thì chỉ là giữ giới sát tiêu cực, việc này cũng gần giống như là Tiểu thừa!
Lấy thế gian mà nói, ăn chay có lợi ích rất lớn, hơi kinh tế, giá trị dinh dưỡng cũng cao, có thể giảm thiểu bệnh tật. Hiện nay trên thế giới có thành lập tổ chức hội ăn chay quốc tế, bất luận là ai, hễ chịu ăn chay thì có thể tham gia, chúng ta có thể thấy ăn chay là một việc tốt, người học Phật phải càng nên đề xướng.
Nhưng điều cần phải chú ý đó là không cần phải nâng tiêu chuẩn học Phật quá cao, cho rằng học Phật thì phải ăn chay mới được. Khi gặp người quy y thì liền hỏi: có ăn chay không? Tại sau quy y lâu như vậy mà vẫn chưa ăn chay? Gom việc ăn chay học Phật làm một kiểu như vậy, thì sẽ gây trở ngại cho việc hoằng dương Phật pháp!
III. Do nơi nghi thức Phật giáo mà sanh hiểu lầm
Người không hiểu rõ Phật pháp, đến chùa nhìn thấy các nghi thức tụng kinh, lễ Phật, bái sám, công phu sớm tối v.v…không hiểu rõ thật nghĩa trong đó liền cho những thứ này là mê tín. Về vấn đề này có rất nhiều, nay xin lược nói mấy điểm như sau:
1. Lễ Phật
1.1 Ý nghĩa lễ bái Phật Bồ-tát:
Vào chùa lễ Phật, dâng hương hoa, đèn đuốc cúng Phật, tín đồ thần giáo phương tây cho chúng ta là sùng bái ngẫu tượng, là mê tín.
Thật ra, Đức Phật là giáo chủ của chúng ta, là bậc Thánh đã đạt được cứu cánh viên mãn; các vị Bồ-tát cũng là những vị sắp thành Phật, đây là nơi chúng ta quy y, là bậc lãnh đạo của chúng ta. Việc tôn trọng Phật Bồ-tát thì đương nhiên phải có sự biểu hiện bề ngoài, cũng giống như là cung kính cha mẹ thì cần phải có dáng lễ độ.
Khi Đức Phật còn ở đời thì không có vấn đề gì, chúng ta có thể trực tiếp biểu thị sự cung kính đối với Ngài. Nhưng hiện tại, Đức Phật đã nhập niết-bàn rồi; vẫn còn có các Đức Phật Bồ-tát ở thới giới phương khác, không thuộc về thế giới chúng ta đây, phải dùng giấy vẽ, bùn đất, gỗ đá để khắc họa nên hình tượng các Ngài, làm đối tượng cung kính lễ bái, đồng thời không vì Ngài là giấy đất gỗ đá.
Cũng giống như chúng ta kính yêu tổ quốc, mình phải làm thế nào để bày tỏ đây? Dùng vải màu may thành quốc kỳ, khi giương cờ lên, chúng ta cung kính hướng về quốc kỳ hành lễ, vậy chúng ta có dám nói đây là việc làm mê tín không? Cơ Đốc giáo cũng có tượng; Cơ Đốc giáo tuy không có tượng thần, nhưng cũng có thập tự giá để làm đối tượng kính niệm, có người còn quỳ xuống cầu nguyện, việc này có khác biệt gì với việc lễ Phật không? Nói Phật giáo lễ Phật là bái ngẫu tượng là do những người chưa hiểu hoặc là những người có tánh hiềm khích mà thôi.
1.2 Cúng dường hương hoa nhang đèn, biểu thị thành kính và cũng để biểu thị sự sáng suốt thanh tịnh của việc học Phật.
Đến phần hương hoa nhang đèn thì sao? Khi Đức Phật còn ở đời, tại Ấn Độ, người ta thường đem những thứ này dâng cúng Phật. Đèn đuốc là biểu thị cho ánh sáng. Hương hoa là biểu thị cho hương thơm thanh khiết. Tin Phật, lễ Phật, một mặt là dùng những thứ này cúng dường, để biểu thị lòng tôn kính, một mặt là biểu thì từ nơi Phật mà có được sáng suốt và thanh tịnh.
Đồng thời, không phải dâng hoa thắp hương là để cho Phật ngửi được mùi hương, thắp đèn thắp đuốc thì Phật mới thấy đường. Tôn giáo Tây dương (chỉ cho các nước nằm ở phía tây Trung Quốc), nhất là Cơ Đốc giáo, không phải là dùng những thứ này đó sao? Đây vốn là nghi thức chung thông thường của các tôn giáo.
Lễ Phật phải cung kính kiền thành; khi lễ Phật, chúng ta phải quán tưởng đây là Đức Phật thật sự. Nếu vừa lễ Phật mà vừa nghĩ đến thứ khác hoặc là nói chuyện thì đó là đại bất kính, mất đi ý nghĩa của lễ Phật.
2. Lễ sám
Tín đồ Phật giáo, mỗi khi lễ sám tụng kinh cũng thường bị tín đồ tôn giáo khác, hoặc là những người không tín ngưỡng hiểu lầm cho là mê tín. Họ đâu biết rằng từ sám, tiếng Phạn là sám-ma, có ý nghĩa là, sau khi làm, chúng ta biết đó là sai, thừa nhận cái sai của mình. Vì con người ta, từ đời quá khứ cho đến đời này ai cũng đều có làm qua những chuyện sai quấy, tạo các thứ tội lỗi, để lại nghiệp lực chiêu dẫn khổ nạn, gây chướng ngại cho việc tu hành giải thoát. Để giảm nhẹ và tiêu trừ nghiệp lực gây chướng ngại khổ nạn, cho nên đối trước chư Phật Bồ-tát và chúng Tăng, thừa nhận lỗi lầm của mình, để tiêu trừ nghiệp chướng của chính mình. Trong Phật pháp có pháp môn lễ sám, đây là phần rất là quan trọng trong quá trình tiến tu. Sám hối phải là tự bản thân sám, sám từ sự chân thành tha thiết của nội tâm mới hợp với ý Phật giáo.
Người thông thường không biết sám hối thì phải làm sao? Chư tổ xưa đã có biên soạn nghi thức sám hối, dạy chúng ta tụng niệm từng câu từng chữ, miệng tụng tâm nhớ nghĩ, cũng để biết ý nghĩa trong đó, sám hối tội lỗi của mình. Trong nghi thức sám hối dạy cho chúng ta phải lễ Phật như thế nào, cầu xin chư Phật Bồ-tát từ bi gia hộ, thừa nhận lỗi lầm của mình, biết các việc như sát sanh, trộm cướp, tà dâm v.v… là không đúng, dốc lòng phát nguyện hối lỗi xưa, tu thiện mới. Những hình thức này đều là nghi thức do các vị tổ sư xưa kia dạy chúng ta sám hối (đạo Gia-tô cũng có văn khấn thị phạm riêng), Nhưng cái chính vẫn phải là từ cái tâm hối cải chân thành tha thiết xuất phát tự đáy lòng.
Có một số người, ngay cả nghi thức có sẳn cũng không biết tụng niệm, nên phải mời người xuất gia đến hướng dẫn; dần dần bản thân không biết sám hối, chỉ chuyên thỉnh Tăng về sám hối thay. Có người, cha mẹ, người thân qua đời, vì muốn nương nhờ hồng ân Tam bảo để tiêu trừ nghiệp tội cho cha mẹ, người thân của mình nên cũng mời người xuất gia đến lễ sám, để cầu siêu thăng cho người mất. Nhưng nếu không hiểu bổn ý của Phật pháp, hay chỉ vì muốn phô trương thanh thế, vì theo phong tục dân gian, chỉ là sự hao phí đôi đồng mời mấy vị xuất gia đến lễ sám, tạo công đức, còn bản thân mình hoặc không tin Phật pháp, hoặc bản thân không có chút thành ý sám hối nào, vì vậy mất đi ý nghĩa lễ sám.
Sau khi Phật giáo có mặt ở Trung Quốc, ý nghĩa của sám hối thật mơ hồ. Bản thân của người học Phật không sám hối, việc nhỏ cũng mời người xuất gia, làm cho người xuất gia bận việc Phật sự, hôm nay lễ sám cho gia đình này, ngày mai làm công đức cho gia đình kia, có những tự viện, ngày nào cũng làm Phật sự coi đó là sự nghiệp duy nhất, còn sự nghiệp chính yếu của người tu thì lại bỏ phế không lo, việc này chẳng trách nào Phật giáo sắp suy tàn.
Cho nên, sám hối chủ yếu là chính bản thân, nếu bản thân thật sự tha thiết sám hối, thậm chí là sám hối một tiếng đồng hồ cũng là hơn hẳn mời nhiều người, làm công đức Phật sự mấy ngày. Hiểu được lý này, nếu phận con cái muốn tận lòng hiếu kính với cha mẹ thì bản thân nên lễ sám thay cho cha mẹ sẽ có công đức rất lớn, vì tình thân máu mủ có mối liên hệ mật thiết với nhau. Đừng nên cho việc lễ sám, tạo công đức là chức nghiệp của người xuất gia, làm vậy không chỉ không có lợi ích gì mà còn làm tăng thêm sự chê bai và hiểu lầm của người thế tục.
3. Khóa tụng
Người học Phật, hai thời sớm tối tụng kinh niệm Phật, trong Phật giáo gọi đó là khóa tụng. Cơ Đốc giáo hai buổi sớm tối và khi ăn cơm đều có cầu nguyện. Tín đồ Thiên Chúa giáo hai buổi sớm tối cũng có tụng kinh. Loại hành nghi tôn giáo này, xưa nay không có vấn đề gì. Nhưng vì sự việc này, có mấy người hỏi tôi: Không học Phật thì vẫn tốt, chớ mà một khi học Phật là thành vấn đề lớn. Cha mẹ của tôi, công phu hai thời sớm tối gần 1,2 tiếng đồng hồ, người học Phật ai cũng đều vậy thì việc trong nhà bỏ phế, không tiến triển.
Có một bộ phận trong cư sĩ, quả thật là có tình trạng này, khiến cho mọi người hiểu lầm “Phật giáo nhàn rỗi lúc tuổi già”, người trẻ không nên học theo. Thật ra, thời khóa tụng sáng tối, chẳng phải nhất định phải tụng kinh gì, niệm Phật gì, cũng không nhất định phải tụng trì bao lâu, có thể tùy theo ý mình, y theo tình hình thật tế mà định thời gian, cái chính là cần phải xưng niệm quy y Tam bảo; mười nguyện của ngài Phổ Hiền cũng rất là quan trọng.
Phật giáo Nhật Bản từ Trung Quốc truyền sang, Tịnh độ tông, Thiên thai tông, Thiền tông v.v…mỗi tông đều có thời khóa riêng của tông mình. Phần giản yếu mà không mất nhiều thời gian vẫn phải kể đến tình hình Phật giáo đời nhà Đường, Tống. Thời khóa tụng của Trung Quốc gần đây, thứ nhất là nghi thức trong chốn tùng lâm thường dùng; nghi này đã trãi qua mấy trăm người, bây giờ tập hợp lại một lần thì phải mất rất nhiều thời gian, để thích ứng hoàn cảnh đặt thù này cho nên khóa tụng là hơi dài. Thứ hai, xu hướng hổn hợp của Phật giáo từ đời nhà Nguyên, Minh đến nay; trong các nghi thức tụng niệm được biên tập có đủ các nội dung, thích hợp với sự tu học khác nhau giữa các tông phái. Thật ra, hàng cư sĩ tại gia không nhất định phải như vậy.
Trước kia, các vị hành giả Đại thừa Ấn Độ, mỗi ngày sáu thời hành năm pháp sám hối. Thời gian ngắn một chút, không cần rườm rà, số lần có tăng thêm cũng không có trở ngại gì. Tóm lại, học Phật không chỉ là tụng niệm nghi thức; còn hàng tại gia học Phật, quyết không để vì thời khóa dài mà làm ảnh hướng đến công việc gia đình.
4. Hóa đồ minh khí
Trung Quốc thời cổ đại khi cúng tổ tiên có phong tục đốt giấy lụa, đốt một ít tơ lụa để cho tổ tiên hưởng dùng, sau này để cho đơn giản bớt, người ta đổi lại dùng giấy để thay thế, rồi về sau này người ta làm thành tiền, nguyên bảo, ngân phiếu (bây giờ là có cả đôla) thậm chí còn làm ra cả nhà cửa, xe hơi, người hầu v.v… để đốt cúng, những thứ này đều là phong tục tập quán từ đời xưa truyền lại, diễn biến mà thành chớ không phải là có từ Phật giáo.
Những sự việc này cũng có mặt tốt, đó là khiến cho con cái biểu thị một chút lòng hiếu kính của mình đối với cha mẹ. Khi mình ăn uống, nghĩ đến cha mẹ tổ tiên; mình có được ăn mặc, chỗ nghỉ ngơi, nghĩ đến tổ tiên, không quên ân đức của ông bà, có cái ý là “uống nước nhớ nguồn vậy”.
Phật giáo truyền vào Trung Quốc, để thích nghi nên phương tiện hợp chung lại giữa tụng kinh và niệm Phật lại với nhau. Thế nhưng, dưới tập quán “tiễn người chết là việc lớn” và “lo hậu sự” thì không tránh khỏi việc phô trương lãng phí, đốt càng nhiều thì càng tốt, từ đó mới bị những nhân sĩ cận đại phê bình và Phật giáo cũng bị cho là mê tín lãng phí.
Tín đồ Phật giáo hiểu rõ ý nghĩa này, tốt nhất là đừng nên đốt giấy tiền vàng bạc v.v…trong Phật pháp không có nghi thức này. Nếu muốn kỷ niệm với người đã mất thì đốt tượng trưng một chút, không cần phải đem vào chùa thiêu để tránh Phật giáo vì chúng ta mà chịu điều tiếng.
5. Xin xăm, xem bói cầu cơ
Có một số chùa Phật giáo có các hoạt động như xin xăm, coi bói, thậm chí là cầu cơ v.v…dẫn đến bị xã hội cười chê, cho là mê tín. Thật ra, Phật giáo chân chánh, không dễ gì chấp nhận hành vi này (vì nó không có, không hiệu nghiệm, là một sự kiện bên ngoài, khác.) Người chân chánh học Phật thì chỉ tin nhân quả. Nếu đời quá khứ và đời này có gây nhiều nghiệp ác thì quyết chắc không thể dùng cách tiêu tai giải hạn để trốn tránh.
Tu thiện được quả thiện, làm ác thì tương lai không tránh khỏi quả báo ác, muốn được quả báo tốt thì phải làm nhiều việc có công đức. Là đệ tử Phật chỉ biết làm nhiều việc thiện, làm tất cả mọi việc theo đúng như pháp và hợp lý, quyết không có cái kiểu dùng thủ đoạn kém hèn đầu cơ trục lợi. Mấy hình thức này, không có liên quan gì đến Phật giáo, đệ tử Phật chân thật tín ngưỡng Phật giáo thì nên tuyệt đối tránh xa những hành vi tôn giáo hạ cấp này.
IV. Do nơi tình hình hiện tại của Phật giáo mà hiểu lầm
Người Trung Quốc thông thường không hiểu rõ Phật giáo, không hiểu rõ tình hình Phật giáo quốc tế chỉ chuyên lấy hiện trạng của Phật giáo Trung Quốc, rồi tùy tiện phê bình. Sau đây là hai loại mà mình thường nghe nói:
1. Tín ngưỡng Phật giáo thì đất nước sẽ suy vong.
Họ cho rằng, Ấn Độ vì tin Phật nên mới mất nước, họ muốn đất nước Trung Quốc được giàu mạnh, do đó võ đoán cho rằng không thể tin Phật giáo.
Thật ra đây là hoàn toàn hiểu lầm, nghiên cứu qua lịch sử Phật giáo, chúng ta đều biết, xưa kia, vào thời đại Ấn Độ cường thịnh nhất thì thời đó Phật giáo cũng hưng thạnh nhất. Khi xưa, vua A-Dục thuộc triều đại Khổng Tước đã thống nhất toàn cõi Ấn Độ, đem Phật giáo truyền khắp thế giới. Sau này, Bà-la-môn giáo phục hưng, Phật giáo suy tàn, thì Ấn Độ chúng ta thấy cũng ngày càng lộn xộn. Lúc Ấn Độ bị Hồi giáo và nước Anh diệt vong, Phật giáo đã suy bại, thậm chí là không còn nữa.
Trên lịch sử Trung Quốc cũng có thí dụ thực tế này. Hiện nay, chúng ta gọi Hoa kiều là người nhà Đường, Trung Quốc là Đường Sơn thì có thể thấy thế lực của đất nước vào triều nhà Đường rất là cường thạnh. Khi đó cũng nhằm thời đại Phật giáo hưng thạnh nhất.; Đường Võ Tông phá hoại Phật giáo thì cũng là triều Đường suy. Từ triều nhà Đường trở về sau, Tống Thái Tổ, Thái Tông, Chân Tông, Nhân Tông đều sùng tín Phật giáo và đó cũng nhằm triều đại hưng thạnh của nhà Tống. Minh Thái Tổ bản thân đã có xuất gia qua, Thái Tông cũng rất là tin Phật, vậy đó không phải là thời đại chánh trị sáng suốt, đất nước hưng thạnh hay sao?
Nhật Bản hiện tại tuy thất bại, nhưng sau thời Minh Trị - Duy Tân, được liệt vào một trong các cường quốc của thế giới, phần lớn họ đều tín phụng Phật giáo, vậy ai nói tin Phật sẽ làm cho đất nước suy yếu? cho nên nhìn từ phương diện lịch sử, vào thời đất nước cường thạnh cũng chính là thời Phật giáo hưng thạnh, vậy tại sao lại mong muốn đất nước hiện đại được giàu mạnh mà lại phản đối đề xướng Phật giáo?
2. Phật giáo không có lợi ích gì đối với xã hội
Các nhân sĩ Trung Quốc cận đại, nhìn thấy Thiên Chúa giáo, Cơ Đốc giáo v.v…có mở trường học, bệnh viện v.v…mà Phật giáo thì lại ít có những việc này nên cho rằng Phật giáo là tiêu cực, không làm những sự nghiệp gì có lợi cho xã hội, không có ích gì cho xã hội.
Đây là luận điệu sai lầm! nhiều lắm là chỉ có thể nói: Phật giáo đồ gần đây không có nổ lực, không có tận trách nhiệm, chớ quyết không phải là Phật giáo không muốn chúng ta làm.
Phật giáo Trung Quốc xưa kia, đại để cũng có làm công tác từ thiện, Phật giáo đồ Nhật Bản hiện nay, mở đại học, trung học v.v… rất nhiều, người xuất gia cũng có nhiều người đảm nhiệm hiệu trưởng và giáo thọ của trung học và đại học. Còn công tác từ thiện thì do nơi mỗi tự viện Tăng chúng đứng ra tổ chức, đặt biệt là Phật giáo đồ ở Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan đều có mối liên hệ bảo trì mật thiết với ngành giáo dục, kiêm luôn công tác từ thiện, cho nên không thể nói là Phật giáo không có đóng góp gì cho lợi ích xã hội, mà chỉ có thể nói Phật giáo đồ Trung Quốc, phải nên tự thân thức tỉnh là bản thân mình, chưa có trọn trách nhiệm của một đệ tử Phật, phải nên nổ lực nhiều từ phương diện này mới hợp với tinh thần cứu thế của Phật giáo, khiến cho Phật giáo phát triển lên.
Hàng nhân sĩ thông thường của Trung Quốc, vẫn còn có sự hiểu lầm rất nhiều về Phật giáo, những điều đã nói hôm nay, so ra càng phổ biến hơn. Hy vọng mọi người biết được những ý nghĩa này, làm một tín đồ Phật giáo tín ngưỡng thuần chánh, chí ít cũng có thể đủ để trừ sạch một chút hiểu lầm đối với Phật giáo, để cho ý nghĩa của Phật giáo thuần chánh xưa nay được phát dương lên. Nếu không thì, xem ra tín ngưỡng Phật giáo rất là kiền thành mà thật ra là bao hàm đủ thứ sai lầm, tin vào tợ đúng mà là sai, việc này cũng khó trách xã hội cười chê!
Hết
MƯỜI LỢI ÍCH LỚN CỦA VIỆC TẠO TƯỢNG, ẤN TỐNG KINH SÁCH
1. Các tội lỗi đã tạo khi xưa, nếu nhẹ thì liền tiêu diệt, còn nặng thì chuyển thành nhẹ.
2. Thường được các vị thiện thần ủng hộ, không bị những tai nạn như: bệnh dịch, nước lửa, trộm cướp, đao binh, ngục tù.
3. Oán thù đời trước, nhờ công đức này mà được hóa giải, không còn cái khổ tìm nhau báo thù nữa.
4. Dạ xoa ác quỷ không thể xâm phạm. Rắn độc, hổ đói không thể làm hại.
5. Tâm được yên ổn, ngày được bình yên, đêm không ác mộng, nhan sắc tươi trẻ, sức khỏe tràn đầy. Làm việc chi cũng đều được lợi ích tốt đẹp.
6. Chí thành ấn tống kinh sách, tạo tượng, tuy lòng không mong cầu điều chi, nhưng được quả báo tốt cơm áo no đủ, gia đình hòa thuận, phúc lộc lâu dài.
7. Nói làm điều chi cũng được trời người hoan hỷ, đi đến bất cứ chỗ nào cũng được nhiều người chào đón yêu mến, cung kính vái chào.
8. Người ngu thì chuyển thành trí, người bệnh thì chuyển thành mạnh, khốn khó thì chuyển thành giàu sang. Nếu lỡ làm thân gái thì sau khi qua đời sẽ chuyển thành thân trai
9. Xa lìa ác đạo, thọ sanh thiện đạo. Tướng mạo đoan chánh, tư chất siêu việt, phúc lộc thù thắng.
10. Gieo trồng căn lành với tất cả chúng sanh. Dùng tâm chúng sanh làm ruộng phước lớn, được vô lượng quả báo thù thắng. Sanh ra nơi nào, cũng được thấy Phật nghe pháp. Tiến thẳng đến tam huệ hoằng khai, tự chứng lục thông, mau chóng thành Phật.
ChùaPhổ Giác: 2/5D ấp Thới Tây 1, xã Tân Hiệp, huyện Hóc Môn, Tp.HCM .
ĐT: 096.919.7733